Đại hội đại biểu Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam lần thứ III nhiệm kỳ 2020 – 2025 có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II (Nghị quyết); quyết định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp 5 năm tới của Đảng bộ. Đại hội được tiến hành theo phương châm: “Bản lĩnh – Trách nhiệm – Đoàn kết – Đổi mới – Hành động”, với chủ đề: “Xây dựng Đảng bộ vững mạnh toàn diện, phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Tập đoàn) giữ vai trò nòng cốt thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam”.
Trong 5 qua, tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh, phức tạp và khó dự đoán; xu hướng đề cao lợi ích quốc gia, dân tộc, cạnh tranh chiến lược địa chính trị, địa kinh tế giữa các nước lớn diễn ra quyết liệt, tác động sâu sắc đến mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, sắc tộc, tôn giáo trên toàn cầu, trong đó có sự khủng hoảng suy giảm của thị trường dầu mỏ. Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 cùng với xu hướng năng lượng xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng mới tác động mạnh mẽ đến các ngành, lĩnh vực trên thế giới, trong đó có ngành Dầu khí. Ở trong nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, niềm tin của nhân dân với Đảng ngày càng củng cố, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao. Trong nhiệm kỳ khóa XII, Đảng ta đặc biệt quan tâm tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chính phủ quyết liệt chỉ đạo các giải pháp duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó đáng chú ý là vấn đề mở cửa thị trường dịch vụ và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, cải cách hành chính, cải cách thể chế.
Giai đoạn 2015 – 2020, Tập đoàn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn. Về khách quan: Giá dầu thô liên tiếp giảm sâu và giữ ở mức thấp, tình hình Biển Đông phức tạp, cạnh tranh thương mại, biến đổi khí hậu, khủng hoảng do dịch bệnh Covid – 19 đã tác động trực tiếp đến mọi mặt hoạt động của Tập đoàn. Công tác quản lý Nhà nước về Dầu khí, các chính sách phục vụ phát triển bền vững Tập đoàn còn bất cập, thiếu thống nhất, Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị chậm được thể chế hóa, chưa tạo ra một hệ sinh thái kinh doanh đồng bộ, xuyên suốt cả chuỗi giá trị. Các đơn vị dịch vụ, trung nguồn và hạ nguồn chịu chung tác động khó khăn từ khâu thượng nguồn; thị trường, việc làm, thu nhập của người lao động trở nên thách thức. Về chủ quan: Tập đoàn đã bộc lộ nhiều hạn chế về chất lượng nguồn lực, năng lực cạnh tranh, trình độ quản trị. Vừa qua, Tập đoàn phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục hạn chế, khuyết điểm trong giai đoạn trước, hệ lụy không tránh khỏi, đã tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, tư tưởng người lao động, uy tín và thương hiệu của Tập đoàn.
Mặc dù vậy, Tập đoàn đã luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ tích cực của các bộ/ngành/địa phương. Ngay sau Đại hội II, Đảng ủy Tập đoàn đã khẩn trương ban hành các quy chế làm việc, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; thông qua tổ chức đảng và đảng viên là lãnh đạo các cấp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng. Hằng năm, Đảng ủy Tập đoàn đã ban hành Nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác, điểm mới trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn đã thảo luận, lựa chọn ưu tiên để giao nhiệm vụ cho cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy/đơn vị trực thuộc Đảng ủy Tập đoàn; Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc Tập đoàn đã ban hành Chương trình hành động, kế hoạch cụ thể hóa, triển khai thực hiện.
 
Đóng góp lớn cho nền kinh tế đất nước
Công tác điều tra cơ bản và tìm kiếm thăm dò dầu khí ở trong nước đã được Tập đoàn triển khai theo chương trình công tác và ngân sách được phê duyệt, đảm bảo hiệu quả, tối ưu dòng tiền phù hợp với từng loại hình dự án tìm kiếm, thăm dò, phát triển khai thác. Hoàn thành công tác thu nổ địa chấn 2D thuộc dự án PVN-15 và thu nổ địa chấn 3D theo chương trình công tác hằng năm của các lô hợp đồng dầu khí. Khai thác hiệu quả các mỏ hiện có; phát triển và đưa các mỏ dầu khí vào khai thác hợp lý. Triển khai thực hiện trích lập Quỹ thu dọn các mỏ, bảo đảm hoàn nguyên môi trường sinh thái khi các mỏ đã hết khả năng khai thác. Trong 05 năm qua, Tập đoàn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch khai thác dầu khí hằng năm Chính phủ giao (kể cả giao bổ sung tăng thêm như năm 2017): Tổng sản lượng khai thác dầu khí ước đạt 150,3 triệu tấn quy dầu, vượt 0,2% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra. Công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí còn góp phần quan trọng trong việc khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển.
Hạ tầng ngành công nghiệp khí dần được hoàn thiện, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hệ thống các đường ống dẫn khí được vận hành an toàn, cung cấp khí ổn định cho các hộ tiêu thụ công nghiệp và tiêu dùng dân sinh. Nguồn khí được cung cấp để: sản xuất điện chiếm 31-33% sản lượng điện toàn quốc; sản xuất đạm trên 1,6 triệu tấn/năm, chiếm 70-75% nhu cầu nội địa. Triển khai việc nhập khẩu và phân phối khí LPG và CNG cho hộ công nghiệp và các hộ tiêu thụ dân sinh trong cả nước. Áp dụng các chính sách thúc đẩy sử dụng khí, đa dạng hóa hình thức đầu tư xây dựng nhà máy điện khí, khuyến khích nghiên cứu sử dụng các công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường… Huy động được nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh khí, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng công nghiệp khí.
Các dự án trong lĩnh vực chế biến dầu khí được tập trung triển khai; sản xuất xăng dầu ước đạt 52,74 triệu tấn, vượt 1,4% chỉ tiêu; Sản xuất đạm ước đạt 9,72 triệu tấn, vượt 23% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra, đáp ứng 70 – 75% nhu cầu đạm trên thị trường và bước đầu đã xuất khẩu. Các nhà máy đạm, lọc – hóa dầu được vận hành an toàn, công tác bảo trì, sửa chữa thường xuyên, định kỳ được tuân thủ đúng yêu cầu của nhà chế tạo và theo kế hoạch.
Tập đoàn tăng cường công tác quản lý, vận hành, bảo trì, sửa chữa đối với các dự án điện đã hoàn thành, bảo đảm hiệu quả đầu tư. Sản xuất điện ước đạt 128,84 tỷ kWh, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra, chiếm khoảng 10-12% tổng sản lượng điện thương phẩm toàn quốc, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Đầu nhiệm kỳ, lĩnh vực dịch vụ dầu khí của Tập đoàn gặp nhiều khó khăn do giá dịch vụ và khối lượng công việc suy giảm theo diễn biến của giá dầu; các nhà thầu dầu khí dừng/giãn, cắt giảm khối lượng công việc và giá dịch vụ, công tác phát triển dịch vụ ra nước ngoài gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh khốc liệt… Hai năm 2018 – 2019, giá dầu phục hồi đã giúp lĩnh vực dịch vụ dầu khí có chuyển biến tương đối thuận lợi, doanh thu dịch vụ dầu khí 5 năm 2016 – 2020 đạt 895 nghìn tỷ đồng; Nộp ngân sách Nhà nước từ lĩnh vực dịch vụ 5 năm đạt 55,1 nghìn tỷ đồng. Tăng trưởng dịch vụ 9%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Hầu hết các đơn vị dịch vụ có đủ năng lực để thực hiện các yêu cầu dịch vụ dầu khí chất lượng cao, tham gia thực hiện công trình quốc phòng trên biển.
Tập đoàn đã tích cực tham gia phát triển hợp lý hệ thống phân phối xăng dầu nhằm góp phần bảo đảm lưu thông và bình ổn thị trường tiêu thụ; tăng cường các giải pháp gia tăng dự trữ về dầu thô và sản phẩm xăng dầu để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hiện tại thị phần phân phối xăng dầu trong nước của Tập đoàn (thông qua PVOil) chiếm trên 14%, với sản lượng trung bình khoảng 3,0-3,07 triệu tấn/năm đứng thứ hai (sau Petrolimex).
Từ nỗ lực trong sản xuất – kinh doanh, kết quả tổng doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 3.514,6 nghìn tỷ đồng, vượt 6,5% chỉ tiêu, lợi nhuận sau thuế hợp nhất Tập đoàn ước đạt 244,4 nghìn tỷ đồng, vượt 6,3% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
 
3 giải pháp đột phá mang lại kết quả
Xuất phát từ nhu cầu của Tập đoàn đồng thời thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, Đảng ủy Tập đoàn đã chỉ đạo công tác tái cơ cấu bộ máy điều hành, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự và tinh gọn, bước đầu đã nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, áp dụng triệt để các tính năng phần mềm quản lý, xử lý công văn nội bộ trong Tập đoàn, giúp nâng cao trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, kiểm soát được tiến độ trong xử lý công việc. Ban hành Bộ quy chế quản trị nội bộ tạo điều kiện cho các hoạt động được thông suốt, phù hợp với những thay đổi về kinh tế, pháp luật, xu hướng công nghệ và tạo tiền đề cho quản trị số trong tương lai. Tập đoàn đã tập trung triển khai thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn giai đoạn 2017 – 2020 theo đúng tiến độ; thực hiện thành công thoái vốn tại 02 đơn vị, cổ phần hóa tại 03 đơn vị. Việc phân cấp, tăng cường tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị khuyến khích sự năng động của đơn vị cùng với cơ chế giám sát chặt chẽ thông qua người đại diện từng bước được thực hiện.
Từ đầu năm 2020, trước tác động kép của dịch bệnh Covid-19 và giá dầu giảm sâu, Tập đoàn đã chủ động theo phương châm “Quản trị biến động, tối ưu giá trị, đẩy mạnh tiêu thụ, nỗ lực vượt khó, nắm bắt cơ hội, an toàn về đích”, tổ chức thực hiện quyết liệt và đồng bộ gói giải pháp cấp bách để ứng phó với tác động kép của dịch bệnh Covid-19 và giá dầu giảm, trong đó tập trung vào 05 nhóm giải pháp tổng thể là: (1) Nhóm giải pháp về quản trị; (2) Nhóm giải pháp về tài chính; (3) Nhóm giải pháp về đầu tư; (4) Nhóm giải pháp về thị trường; (5) Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách; và chi tiết cụ thể hóa cho 05 lĩnh vực hoạt động của Tập đoàn, 03 lĩnh vực trọng tâm được xác định chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất do tác động kép đó là: (1) Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí; (2) Chế biến dầu khí và phân phối sản phẩm dầu khí; (3) Dịch vụ dầu khí. Sau thời gian quyết liệt triển khai đồng bộ, bước đầu Tập đoàn đã đạt được những kết quả khích lệ. Trong 6 tháng đầu năm 2020, lợi nhuận sau thuế hợp nhất của Tập đoàn đạt 13,5 nghìn tỷ đồng. Nếu không thực hiện hiệu quả 5 nhóm giải pháp quản trị thì Tập đoàn sẽ thua lỗ giống như nhiều công ty dầu khí khác trên thế giới.
Công tác đào tạo và phát triển nhân lực tập trung cho 5 lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho lãnh đạo cấp cao, quản lý cấp trung và cán bộ nguồn; đào tạo bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, Tập đoàn đã xây dựng chương trình đào tạo khung cho khối kỹ thuật và tiếp tục xây dựng chương trình đào tạo khung cho cán bộ lãnh đạo/quản lý và khối nghiệp vụ phi kỹ thuật.
Tập đoàn đã đầu tư nghiên cứu đánh giá tiềm năng triển vọng dầu khí phục vụ cho công tác gia tăng trữ lượng, nghiên cứu chế tạo, nghiên cứu định hướng và đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ứng dụng khoa học – công nghệ, các thành tựu của Cách mạng Công nghiệp 4.0 được triển khai ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của Tập đoàn. Khâu đầu đã ứng dụng các công nghệ mới trong xử lý và minh giải số liệu địa chấn, địa vật lý giếng khoan giúp nâng cao độ tin cậy và chính xác hóa các kết quả xử lý và phân tích; xây dựng mô hình địa chất, thiết kế mô hình mô phỏng khai thác, công nghệ khoan và hoàn thiện giếng giúp giảm thiểu rủi ro trong thi công khoan; trong quản lý và vận hành khai thác góp phần duy trì và gia tăng sản lượng khai thác, bảo đảm an toàn mỏ… Ở lĩnh vực khâu sau, điện và khí, ứng dụng các công nghệ mới của nước ngoài trong thiết kế, vận hành và duy trì hoạt động góp phần nâng cao hiệu quả của các nhà máy.
 
Tổ chức Đảng đã giữ vai trò hạt nhân
Tổ chức cho toàn thể đảng viên học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng. Coi trọng việc nắm bắt tư tưởng, dư luận quần chúng lao động trong ngành và dư luận xã hội, nhất là những vấn đề chính trị thời sự, tình hình Biển Đông; tích cực tuyên truyền giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển. Tuyên truyền, giải thích với cán bộ, đảng viên và người lao động, phản bác những luận điểm sai trái về vấn đề kinh tế – xã hội, lao động việc làm, chế độ, chính sách cũng như những vấn đề liên quan đến hoạt động của Tập đoàn. Chủ động cung cấp thông tin, tuyên truyền việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Tập đoàn và các đơn vị thành viên để dư luận hiểu đầy đủ, chính xác, đồng thời tạo sự đồng thuận, hỗ trợ, hợp tác của truyền thông và toàn xã hội. Việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII); các quy định về chuẩn mực đạo đức, lối sống của đảng viên, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao là một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, đảng viên hằng năm. Triển khai Văn hóa Petrovietnam trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện an sinh xã hội cũng như trong thỏa ước lao động tập thể, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; bảo vệ giá trị cốt lõi và thương hiệu Petrovietnam.
Đảng uỷ Tập đoàn đặc biệt quan tâm xây dựng hệ thống và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng; củng cố, sắp xếp, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ và đoàn thể đồng bộ với quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp. Hằng năm xếp loại tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh (từ năm 2018 đổi thành hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ) đạt 100% so với chỉ tiêu Đại hội. Hệ thống các văn bản về Công tác cán bộ được Ban Thường vụ Đảng ủy, Hội đồng thành viên ban hành đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, triển khai thực hiện trong toàn Tập đoàn; Tổng giám đốc Tập đoàn đã xây dựng hệ thống quản trị nhân sự theo năng lực. Tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ theo định kỳ và đánh giá trước khi quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ. Thực hiện nghiêm túc kiểm điểm tự phê bình và phê bình làm tiền đề phân loại, đánh giá cán bộ và chỉ đạo xây dựng, bổ sung quy hoạch cán bộ các cấp trong Tập đoàn. Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn đã xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, chỉ đạo cấp ủy đảng trực thuộc rà soát, bổ sung quy hoạch, thực hiện điều động và luân chuyển cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ diện quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn và tránh tình trạng khép kín trong công tác cán bộ. Công tác cơ sở đảng, đảng viên và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy các cấp được cải tiến và nâng cao chất lượng. Các chi/đảng bộ trong toàn Tập đoàn thực hiện nghiêm túc chủ trương nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý đảng viên có liên quan đến yếu tố nước ngoài, thực hiện nhiệm vụ của đảng viên ra nước ngoài, bảo mật, lưu trữ, bảo quản tài liệu bảo đảm đúng quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, thi hành kỷ luật đảng và phòng chống tham nhũng, lãng phí được thực hiện bảo đảm đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục, quy trình; tham mưu thực hiện tốt quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát và các nhiệm vụ khác do cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên giao; đã góp phần cảnh báo, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Trong nhiệm kỳ đã nghiêm túc thực hiện quyết định kiểm tra, kết luận kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương, chủ động rà soát, khắc phục các hạn chế, tồn tại liên quan đến nội dung kiểm tra.
Đảng ủy Tập đoàn đã quán triệt, triển khai, thực hiện nghiêm túc công tác Dân vận, làm tốt công tác an sinh xã hội trong nội bộ và nhất là những nơi có hoạt động Dầu khí. Chỉ đạo các đoàn thể phối hợp với lãnh đạo doanh nghiệp phát động các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, tạo sự đồng thuận của người lao động trong công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa, trong đẩy mạnh sáng kiến, sáng tạo, hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh. Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ các cấp trong Tập đoàn đã chỉ đạo các đoàn thể tích cực tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các quy chế, quy định theo pháp luật và điều lệ của các tổ chức, giám sát việc thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thi đua khen thưởng; đóng góp ý kiến cho công tác cán bộ, xây dựng Văn hóa doanh nghiệp, chính sách với lao động trẻ, lao động nữ và người hưu trí… Việc tổ chức đối thoại được tổ chức đúng quy định, những vấn đề đưa ra đối thoại được giải quyết thỏa đáng.
Nhìn lại nhiệm kỳ 2015 – 2020 của Đảng bộ Tập đoàn cũng là trọn vẹn 5 năm thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị, là giai đoạn Tập đoàn phải đối diện với những khó khăn, thách thức lớn nhất trong lịch sử của ngành Dầu khí. Song với tinh thần cầu thị, thực sự bản lĩnh, đoàn kết, nỗ lực và ý chí quyết tâm, tập thể cán bộ, đảng viên, công nhân viên lao động Dầu khí đã phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức 08 nhóm chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội II Đảng bộ Tập đoàn đề ra. Tập đoàn tiếp tục có đóng góp lớn và giữ vai trò quan trọng đảm bảo cân đối ngân sách Nhà nước. Các sản phẩm chủ lực của Tập đoàn là dầu thô, xăng dầu, khí thiên nhiên, khí hóa lỏng, điện, đạm… với tỷ trọng lớn, góp phần rất quan trọng phát triển kinh tế – xã hội đất nước và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Quan tâm phát triển hệ thống quản trị tiên tiến, đáp ứng các yêu cầu theo thông lệ quốc tế, minh bạch trong hoạt động. Bên cạnh phát triển kinh tế, Tập đoàn góp phần tham gia tích cực trong việc khẳng định, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển.
Tổ chức đảng các cấp trong toàn Đảng bộ đã giữ vai trò hạt nhân, lãnh đạo toàn diện, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng ủy tiếp tục được đổi mới; chú trọng rà soát, khắc phục các khâu yếu kém trong công tác cán bộ, tạo chuyển biến tích cực và ngày càng đi vào nền nếp. Công tác xây dựng Đảng, đoàn thể trong Tập đoàn được củng cố theo hướng thiết thực, hiệu quả. Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp được tái cơ cấu với quyết tâm chính trị cao. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả hơn../
 
Nhóm 8 chỉ tiêu đạt và vượt
(1) Tổng sản lượng khai thác dầu khí ước đạt 150,3 triệu tấn quy dầu, vượt 0,2% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (130-150 triệu tấn quy dầu), trong đó:
+ Tổng sản lượng khai thác dầu ước đạt 89,17 triệu tấn quy dầu, đạt so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (80-90 triệu tấn).
+ Tổng sản lượng khai thác khí ước đạt 61,12 tỷ m3, vượt 1,86% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (50-60 tỷ m3).
(2) Sản xuất điện ước đạt 128,84 tỷ kWh, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (120-130 tỷ kWh).
(3) Sản xuất đạm ước đạt 9,72 triệu tấn, vượt 23% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (7,9 triệu tấn).
(4) Sản xuất xăng dầu ước đạt 52,74 triệu tấn, vượt 1,4% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (50 – 52 triệu tấn).
(5) Tổng doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 3.514,6 nghìn tỷ đồng, vượt 6,5% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (3.000 – 3.300 nghìn tỷ đồng).
(6) Lợi nhuận sau thuế hợp nhất Tập đoàn ước đạt 244,4 nghìn tỷ đồng, vượt 6,3% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (200 – 230 nghìn tỷ đồng).
(7) Tăng trưởng dịch vụ đạt 9%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (8-10%).
Tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh (từ năm 2018 đổi thành tổ chức đảng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và tỉ lệ không quá 20%) từ năm 2015 – 2017 đạt trên 50%, từ năm 2018 – 2019 đạt trên 20% đạt 100% so với chỉ tiêu đại hội.
 
Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn
Một là, đối với Tập đoàn, 45 năm qua, cũng như 05 năm thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW đã chứng minh rằng, tầm nhìn chiến lược đúng đắn, đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế trong nước và hoàn cảnh quốc tế là yếu tố quyết định để nắm bắt các cơ hội, phát huy nội lực, tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh hoạt động dầu khí trong nước.
Hai là, Đảng bộ Tập đoàn phải nêu cao bản lĩnh, tính chiến đấu, ý thức chủ động, bình tĩnh, tự tin, giữ vai trò hạt nhân, tập hợp đoàn kết, giữ gìn ổn định, cân bằng, sẵn sàng đối diện thách thức, đương đầu với khủng hoảng.
Ba là, bảo đảm nguyên tắc: Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và thống nhất quản lý cán bộ trong doanh nghiệp. Tập thể lãnh đạo phải có trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý, có tinh thần đoàn kết, thống nhất, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm nhưng phải tuân thủ các quy định của pháp luật; không bao che, kiên quyết xử lý các cán bộ vi phạm pháp luật; chủ động, linh hoạt trong quản trị, điều hành vì mục tiêu phát triển bền vững. Nguồn nhân lực phải được đào tạo toàn diện, nhất là về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quản lý, khoa học – công nghệ, tay nghề.
Bốn là, tập trung nguồn lực để đầu tư phát triển các lĩnh vực kinh doanh chính bao gồm: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, công nghiệp khí, chế biến dầu khí, điện và năng lượng tái tạo, dịch vụ dầu khí theo chỉ đạo của Chính phủ.
Năm là, Tập đoàn cần tiếp tục được tập trung tăng cường nguồn lực; có các chính sách đặc thù để phát triển bền vững; bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm để Tập đoàn phát triển đúng Chiến lược đã được Bộ Chính trị định hướng.
Giai đoạn 2020 – 2025, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị “về định hướng Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035”, đồng thời cập nhật các quan điểm của Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Trung ương “về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị “về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Đây cũng là thời kỳ Tập đoàn phải bám sát xu thế phát triển của thế giới, chiến lược phát triển đất nước, chủ động thích nghi với các hiệp định thương mại tự do, hiệp định kinh tế mới; tăng cường năng lực dự báo, quản trị rủi ro; ứng phó hiệu quả các biến động, bất định; đối diện với suy thoái, khủng hoảng kinh tế toàn cầu do dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp; hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn trên Biển Đông đứng trước thách thức, nguy cơ lớn. Trong bối cảnh đó, Tập đoàn sẽ kiên định phát triển với Mục tiêu tổng quát là: Xây dựng Đảng bộ vững mạnh toàn diện, phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam giữ vai trò nòng cốt, chủ lực, đầu tầu, có tiềm lực mạnh về tài chính và trình độ khoa học công nghệ tiên tiến; có sức cạnh tranh cao, thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển ngành Dầu khí. Tập trung phát triển các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, công nghiệp khí, chế biến dầu khí, công nghiệp điện và năng lượng tái tạo, dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất lượng cao. Bảo toàn và phát triển nguồn vốn; gắn hoạt động sản xuất, kinh doanh với bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra, toàn Đảng bộ sẽ phải tập trung:
Nâng cao vai trò và trách nhiệm lãnh đạo toàn diện của tổ chức đảng trong Tập đoàn, thông qua triển khai học tập, quán triệt, chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước; công tác chính trị, tư tưởng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; công tác cán bộ; công tác kiểm tra – giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng lãng phí; chú trọng công tác dân vận, lãnh đạo các tổ chức chính trị – xã hội phối hợp hành động, cùng với chuyên môn phát huy sức mạnh của người lao động, đoàn viên, hội viên trong thực hiện Chiến lược phát triển ngành Dầu khí. Coi trọng công tác truyền thông, phát triển thương hiệu gắn với công tác an sinh xã hội. Thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam tự hào dùng hàng Việt Nam”; thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở trong cơ quan, doanh nghiệp. Đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức, phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy chế, quy định của cấp ủy: quy chế làm việc, quan hệ công tác, quản lý cán bộ theo quy định của Đảng. Quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu tổ chức đảng trong doanh nghiệp khi để xảy ra thua lỗ, tổn thất trong hoạt động và vi phạm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc chức năng nhiệm vụ tổ chức đảng trong từng loại hình đơn vị, doanh nghiệp; đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong thực thi nghị quyết của Đảng, xây dựng các nghị quyết, quy định của cấp ủy với các quy định của cấp quản lý, điều hành về công tác tổ chức và cán bộ đảm bảo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và thống nhất quản lý cán bộ.
Tăng cường công tác quản trị chiến lược từ khâu hoạch định, thiết lập, triển khai tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá và khắc phục điều chỉnh chiến lược nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển dài hạn của Tập đoàn. Song song với phát triển năng lượng truyền thống, Tập đoàn sẽ đẩy mạnh phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo bám sát xu hướng chuyển dịch năng lượng toàn cầu đảm bảo phát triển bền vững. Tiếp tục cải cách, đổi mới, áp dụng các phương thức quản trị tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả quản trị, quản lý các nguồn lực của Tập đoàn. Tích cực cải tiến, hợp lý hóa sản xuất, thực hành tiết kiệm, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh; tái cơ cấu sắp xếp doanh nghiệp, giảm bớt trung gian, tinh gọn bộ máy. Đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, thoái vốn tại các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm vốn chi phối, hợp nhất các đơn vị có cùng chức năng nhiệm vụ, xử lý, tái cơ cấu các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả, thua lỗ. Trong quá trình thực hiện bộ Quy chế Quản trị Công ty Mẹ-Tập đoàn thường xuyên cập nhật phù hợp với thực tiễn doanh nghiệp; kiên quyết chấn chỉnh, nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân; phân cấp, phân quyền rõ ràng đi đôi với chế tài xử lý trách nhiệm giữa Tập đoàn và người đại diện Tập đoàn tại đơn vị, doanh nghiệp. Tổng hợp các dữ liệu để nhận định rủi ro trọng yếu; coi quản trị sự thay đổi là công tác liên tục của Tập đoàn trong từng lĩnh vực, nhiệm vụ chuyên môn nhằm định hướng và thiết lập, xây dựng các quy trình, quy chế kiểm soát rủi ro phù hợp với mô hình hoạt động của Tập đoàn.
Tập trung xử lý các tồn tại tài chính trước đây một cách toàn diện và triệt để. Chú trọng công tác quản trị tài chính từ khâu lập kế hoạch trên cơ sở các giả định thị trường, từ đó hoàn thiện hệ thống báo cáo quản trị, phân tích tài chính làm cơ sở để ra quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiếp tục đề xuất kiến nghị Nhà nước hoàn thiện cơ chế tài chính phù hợp với mô hình phát triển doanh nghiệp Dầu khí. Chủ động, linh hoạt trong việc thu hút vốn qua các quỹ đầu tư, thị trường chứng khoán, trái phiếu… đáp ứng nhu cầu phát triển, chia sẻ rủi ro, thu hồi vốn và bổ sung vốn chủ sở hữu.
Rà soát tổng thể các dự án đầu tư đang triển khai; tập trung nguồn lực vào các dự án có hiệu quả cao, các dự án cấp bách; quyết liệt xử lý các dự án yếu kém, tồn đọng kéo dài. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trọng điểm, đặc biệt là các chuỗi dự án khí – điện. Đề xuất cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với cam kết quốc tế để thu hút đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế khác vào hoạt động dầu khí, đặc biệt là trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, chế biến dầu khí và đầu tư phát triển năng lượng tái tạo. Tối ưu hóa nguồn lực giữa các đơn vị, các khối trong Tập đoàn; phát huy thế mạnh, nâng cao lợi thế cạnh tranh của từng đơn vị để phát triển một hoặc nhiều chuỗi giá trị.
Tái cơ cấu các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành Dầu khí trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Phát triển nguồn nhân lực Dầu khí chuyên nghiệp, theo tiêu chuẩn quốc tế; chú trọng đào tạo nâng cao năng lực quản lý, điều hành; ưu tiên đào tạo về chuyên môn, kỹ năng thuộc các lĩnh vực kinh doanh chính, chuyên gia thuộc các lĩnh vực cốt lõi. Xây dựng chế độ thù lao, thu nhập của người lao động có chuyên môn cao tiệm cận với thu nhập của các nước trong khu vực.
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Áp dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến kết hợp với các chính sách khuyến khích phù hợp để gia tăng hiệu số thu hồi dầu cũng như đưa các mỏ nhỏ, mỏ cận biên vào phát triển khai thác. Chủ động và tích cực tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 để sớm triển khai ứng dụng các giải pháp thích hợp, đồng thời với xây dựng hệ sinh thái số nhằm nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị. Coi công tác quản lý an toàn, an ninh, môi trường là văn hóa đặc trưng của Tập đoàn.
Thông qua Tái tạo Văn hóa Petrovietnam làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi hoạt động của tổ chức Đảng, hoạt động quản trị, điều hành sản xuất, kinh doanh trong Tập đoàn và các đơn vị thành viên, tạo môi trường cho cán bộ, đảng viên tu dưỡng, giữ gìn đạo đức, phẩm chất, lối sống; người lao động Dầu khí tin tưởng, yên tâm, tự hào và gắn bó với Tập đoàn Dầu khí. Tuyên truyền, vận động, tập huấn, đào tạo nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trong Tái tạo Văn hóa Petrovietnam của cán bộ, công nhân viên.
Thực hiện hợp tác có hiệu quả các quy chế phối hợp và các thỏa thuận hợp tác giữa Tập đoàn với các cơ quan của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao để chủ động chuẩn bị thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm soát, điều tra cơ bản, tìm kiếm, thăm dò dầu khí. Có chính sách thu hút, hợp tác với các công ty dầu khí thuộc các nước lớn đối với hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, vừa phục vụ phát triển kinh tế, vừa bảo vệ chủ quyền trên biển.
———————————————————–
Đại hội đại biểu Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam lần thứ III, nhiệm kỳ 2020 – 2025 là dịp tổng kết chặng đường 5 năm đã qua với những khó khăn liên tiếp, chưa từng có trong lịch sử Tập đoàn. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh bất thường càng tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ của người Dầu khí; qua đây, Ban Chấp hành Đảng bộ Tập đoàn nhận thức sâu sắc về trách nhiệm với Đảng, với Nhà nước, với cán bộ, công nhân viên, người lao động Dầu khí và nhân dân. Với tinh thần Bản lĩnh – Trách nhiệm – Đoàn kết – Đổi mới – Hành động, Đảng bộ Tập đoàn sẽ nghiêm túc khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm, tận dụng thời cơ, tự tin vượt qua thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy mọi nguồn lực, quyết tâm thực hiện hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó, xứng đáng là trụ cột của nền kinh tế đất nước; đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

PHÁT TRIỂN VPI THÀNH HẠT NHÂN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

Toàn cảnh Đại hội Đảng bộ VPI nhiệm kỳ 2020-2025

Ngày 22/5/2020, Đảng bộ Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) đã tổ chức thành công Đại hội Đại biểu lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Tham dự Đại hội có đồng chí Trần Mạnh Tuấn – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương (DNTW) ; đồng chí Nguyễn Hồng Dũng – Phó Trưởng ban Tổ chức Đảng ủy Khối DNTW; đồng chí Phạm Xuân Cảnh – Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, Thành viên HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); đồng chí Phan Ngọc Trung – Ủy viên BCH Đảng bộ, Thành viên HĐTV Tập đoàn; đồng chí Trần Quang Dũng – Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Trưởng Ban Truyền thông và Văn hóa Doanh nghiệp Tập đoàn; Chủ tịch Công đoàn Dầu khí Việt Nam Nghiêm Thùy Lan; đại diện Văn phòng Đảng ủy, các ban chuyên môn của Tập đoàn; đại diện các tổ chức chính trị – xã hội của VPI, cùng 156 đảng viên đến từ 9 Chi bộ của VPI.

Đại hội Đảng bộ VPI tập trung trí tuệ, tổng kết, đánh giá khách quan, toàn diện kết quả đã đạt được, chỉ ra yếu kém, phân tích rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện cho nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Kết quả đạt được của Đảng bộ VPI trong nhiệm kỳ 2015 – 2020

Trong nhiệm kỳ 2015 – 2020, Đảng bộ VPI đối diện với thách thức lớn khi kinh tế trong nước và thế giới biến động phức tạp, giá dầu thô liên tục giảm sâu và giữ ở mức thấp, mô hình hoạt động phải điều chỉnh theo các quy định mới của Nhà nước… Song với tinh thần “Trí tuệ Dầu khí – Truyền thống Anh hùng – Vững tiến vươn xa”, cán bộ, đảng viên, người lao động VPI đã chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, có bước phát triển vượt bậc, toàn diện trong nghiên cứu khoa học và dịch vụ khoa học công nghệ, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI và Kế hoạch 5 năm 2016 – 2020.

Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Đảng bộ VPI đặt mục tiêu xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu và khả năng thích ứng cao; xây dựng và phát triển VPI thành Học viện Dầu khí Việt Nam, hạt nhân trong hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và ứng dụng khoa học công nghệ dầu khí, hội tụ trí tuệ thế giới, tạo giá trị gia tăng về khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho PVN và ngành Dầu khí Việt Nam, giúp PVN phát triển bền vững và tăng năng lực cạnh tranh thông qua tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh và đột phá trong ứng dụng và sáng tạo công nghệ…

Cụ thể, trong nghiên cứu khoa học công nghệ, VPI đặt mục tiêu triển khai thành công tối thiểu 4 chương trình nghiên cứu dài hạn để tạo ra các sản phẩm/giải pháp khoa học công nghệ, đón đầu các xu hướng chính trên thế giới (chuyển đổi năng lượng, kinh tế số); tư vấn xây dựng Chiến lược, Quy hoạch phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, PVN giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; số lượng bài báo công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế (Q1, Q2 hoặc IF>2) tăng trưởng 15%/năm; đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ/sản phẩm khoa học công nghệ (sáng kiến, sáng chế, giải pháp, bản quyền tác giả) tăng trưởng 10%/năm, có tối thiểu 2 phát minh sáng chế quốc tế.

Về ứng dụng khoa học công nghệ, VPI tập trung xây dựng và phát triển hệ sinh thái sáng tạo cho ngành Dầu khí Việt Nam trong đó Học viện Dầu khí Việt Nam là hạt nhân, hội tụ trí tuệ thế giới. Số lượng hợp đồng ký mới tăng trung bình 10%/năm; ngoài ngành và nước ngoài tăng trưởng 20%/năm; thử nghiệm áp dụng tối thiểu 5 công nghệ mới trên thế giới; thương mại hóa tối thiểu 3 sản phẩm khoa học công nghệ.

Đồng chí Trần Mạnh Tuấn – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối DNTW trao Giấy khen cho các tập thể (Chi bộ Nghiệp vụ và Chi bộ An toàn Môi trường) có thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ 2015 – 2020.

Đồng chí Trần Quang Dũng – Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Trưởng Ban Truyền thông và Văn hóa Doanh nghiệp Tập đoàn trao Giấy khen cho các đảng viên có thành tích xuất sắc trong công tác nhiệm kỳ 2015 – 2020.

Trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò dầu khí truyền thống và phi truyền thống, VPI tập trung nghiên cứu các giải pháp kinh tế, kỹ thuật để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí ở Việt Nam và duy trì các hợp đồng dầu khí ở nước ngoài; nghiên cứu, cập nhật xây dựng cơ sở dữ liệu tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí; chính xác hóa ranh giới địa tầng trầm tích và liên kết các bể trầm tích Kainozoi trên thềm lục địa Việt Nam; nghiên cứu về công tác thăm dò mở rộng theo diện phạm vi toàn thềm và theo chiều sâu (các đối tượng từ Oligocene trở xuống), thời gian đầu thực hiện trong phạm vi các bể trầm tích Cửu Long và bể Nam Côn Sơn; nghiên cứu về công nghệ xử lý minh giải tài liệu địa chấn; nghiên cứu và đánh giá tiềm năng khí hydrate (gas hydrate) trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.

Trong lĩnh vực khai thác dầu khí, VPI sẽ tập trung nghiên cứu nâng cao hệ số thu hồi dầu cho các mỏ dầu khí ở Việt Nam; nghiên cứu công nghệ tiên tiến hiên đại phục vụ công tác thu dọn mỏ; nghiên cứu thiết kế, chế tạo phương tiện, trang thiết bị nhằm tăng hiệu quả công tác phát triển khai thác mỏ, vận chuyển, xử lý, tàng chứa dầu khí; nghiên cứu chế tạo vật liệu ưu việt phục vụ công tác thiết kế, chế tạo công trình khai thác, xử lý, vận chuyển, tàng chứa dầu khí; nâng cao khả năng, hiệu quả vận chuyển dầu bằng đường ống nội bộ mỏ và giữa các mỏ; nghiên cứu tối ưu chế độ khai thác mỏ…

Trong lĩnh vực chế biến dầu khí, VPI nghiên cứu kịch bản và các phương án đầu tư, nâng cấp, chuyển đổi nguyên, nhiên liệu tối ưu nhất cho các nhà máy đạm trong các giai đoạn khác nhau; chế biến hiệu quả thành phần carbon của khí thiên nhiên có hàm lượng CO2 cao; phát triển tích hợp lọc dầu và hóa dầu từ dầu. Trong lĩnh vực kinh tế – quản lý, VPI tiếp tục đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực quản trị của PVN trong giai đoạn 2020 – 2025; nghiên cứu tăng cường khả năng kiểm soát và nâng cao độ tin cậy hệ thống công nghệ tại các công trình dầu khí thông qua các giải pháp quản lý an toàn.VPI chủ động phát triển sản phẩm thương mại (phần mềm/giải pháp công nghệ thông tin, anode hy sinh, hóa chất, sản phẩm đại chúng), đăng ký bản quyền trong nước và thế giới; tiếp tục mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ ra ngoài Tập đoàn, ngoài ngành và thế giới; triển khai và phát triển Hệ thống quản lý và chia sẻ tri thức dầu khí Việt Nam (VPInsights).

Đại hội đã tập trung trí tuệ thảo luận và góp ý kiến vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng và dự thảo báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam lần thứ III, nhiệm kỳ 2020-2025. Đại hội nhất trí và thông qua phương hướng nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra.

Đồng chí Phạm Xuân Cảnh – Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, Thành viên HĐTV PVN phát biểu chỉ đạo tại Đại hội.

Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, đồng chí Phạm Xuân Cảnh đánh giá cao VPI đã đẩy mạnh triển khai các chương trình nghiên cứu dài hạn; các đề án hợp tác nghiên cứu với các tổ chức trong nước và quốc tế: “Kết quả nghiên cứu khoa học của VPI là cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, chiến lược, quyết định của PVN và tư vấn cho Nhà nước trong các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, tàng trữ, chế biến, an toàn môi trường và kinh tế quản lý dầu khí…; đã kịp thời tư vấn các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn và các đơn vị thành viên”.

Về nhiệm vụ trong thời gian tới, đồng chí Phạm Xuân Cảnh yêu cầu VPI tiếp tục triển khai hiệu quả các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo, ứng dụng khoa học công nghệ dầu khí; là cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu, là nền tảng đổi mới sáng tạo, nơi hội tụ trí tuệ thế giới để tạo giá trị khoa học và công nghệ cho ngành Dầu khí Việt Nam, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho PVN, gia tăng lợi thế cạnh tranh thông qua tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh và đột phá trong ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ, phấn đấu đến năm 2025 đạt trình độ ngang tầm khu vực.

Đồng thời, đồng chí Phạm Xuân Cảnh yêu cầu VPI tập trung nguồn lực để triển khai các nhiệm vụ nhằm tạo ra sự đột phá trong dài hạn như: xây dựng mô hình triển khai đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ mới thông qua hợp tác với các sàn công nghệ, nâng cao giá trị cơ sở dữ liệu thông qua hệ thống chia sẻ tri thức, hoàn thiện và triển khai các chương trình nghiên cứu dài hạn; tăng cường quảng bá, tiếp tục mở rộng đối tượng và phạm vi cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ; khẳng định rõ vai trò trong tham mưu, lập, tư vấn thẩm định các dự án trọng điểm quốc gia và trọng điểm của ngành Dầu khí.

Nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục củng cố các tổ chức Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, đồng chí Phạm Xuân Cảnh yêu cầu Đảng bộ VPI đặc biệt coi trọng củng cố, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và cả hệ thống chính trị. Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, trong đó quan tâm, chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao, coi trọng đào tạo và đào tạo lại. VPI cần xác định văn hóa doanh nghiệp cũng là nguồn tài nguyên, lợi thế, là động lực phát triển; chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên và tham gia tích cực công tác an sinh xã hội; tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thay mặt Đảng bộ VPI, đồng chí Nguyễn Anh Đức đã tiếp thu, lĩnh hội toàn bộ ý kiến chỉ đạo của đồng chí Phạm Xuân Cảnh và cam kết sẽ bổ sung các ý kiến chỉ đạo vào nội dung Nghị quyết Đại hội, từ đó xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, thiết thực và tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong thời gian tới.

Các đại biểu bỏ phiếu bầu Ban Chấp hành Đảng bộ VPI nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Lãnh đạo Đảng ủy Khối DNTW và PVN chúc mừng các đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ VPI nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ VPI nhiệm kỳ 2020 – 2025 gồm 15 đồng chí, bầu trực tiếp Bí thư Đảng ủy tại Đại hội, bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam lần thứ III. Tại Hội nghị lần thứ I, Ban Chấp hành Đảng bộ VPI nhiệm kỳ 2020 – 2025 đã bầu Ban Thường vụ Đảng ủy (5 đồng chí), Phó Bí thư (2 đồng chí), Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy VPI (5 đồng chí). Viện trưởng VPI Nguyễn Anh Đức tiếp tục được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy VPI nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Kết thúc Đại hội, toàn thể đảng viên của Đảng bộ đã nhất trí thông qua nội dung Nghị quyết và thể hiện tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết tâm hoàn thành các nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ 2020-2025.

Các đại biểu tham dự Đại hội

Đồng chí Bùi Hồng Diễm, Chi bộ Trung tâm An toàn và Môi trường

Tại Đại hội, đồng chí Bùi Hồng Diễm, Chi bộ Trung tâm An toàn và Môi trường chia sẻ, trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ VPI đã tạo được sự thống nhất trong nhận thức về giá trị cốt lõi “Đạo đức – Chuyên nghiệp – Trí tuệ” của Viện đồng thời coi trọng việc cụ thể hóa các giá trị cốt lõi thành chương trình, kế hoạch hành động, cơ chế, chính sách; đã khơi dậy lòng tự hào là thành viên của đơn vị Anh hùng Lao động và phát huy được tính chủ động, đổi mới sáng tạo của toàn thể cán bộ, đảng viên, người lao động trong mọi hoạt động của Viện, đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu và dịch vụ khoa học công nghệ.

Đồng chí Phan Công Bội, Chi bộ Trung tâm Lưu trữ Dầu khí

Với đồng chí Phan Công Bội, Chi bộ Trung tâm Lưu trữ Dầu khí bày tỏ, Đảng bộ VPI trong những năm qua luôn quan tâm thu hút, xây dựng, đào tạo, phát triển lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu khoa học có trình độ, tâm huyết, gắn bó với Viện; luôn thường xuyên quan tâm và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được cống hiến, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật… sự phát triển bền vững của Viện Dầu khí Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam – thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới. Nhân dịp đầu xuân Canh Tý, Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930- 3/2/2020), cùng ôn lại những mốc son trên chặng đường lịch sử vinh quang của Đảng.
Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945)
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:      
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào XôViết-Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của thực dân Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức XôViết. Cao trào cách mạng 1930 – 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 – 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp…
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 – 1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước  (1945 – 1975)
Trong những năm 1945 – 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế – văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.
Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế – xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế – xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới…
Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa – xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Những thành tựu qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
Theo nguồn: www.pvn.vn

Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị, Đảng bộ Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) và Đảng bộ Trường Đại học Dầu khí Việt Nam (PVU) đã tổ chức chương trình giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, tư tưởng – đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh với chủ đề “Nhớ lời Di chúc theo chân Bác”.

TS. Phan Ngọc Trung – Thành viên HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trao tặng bức tranh Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Khu công nghiệp dầu khí Bacu (Azerbaijan) cho ông Vũ Duy Chính – đại diện Hội người Việt Nam tại Udonthani, Thái Lan.

Đây là hoạt động ý nghĩa hướng tới kỷ niệm 44 năm ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam – thống nhất đất nước, 129 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 60 năm Ngành Dầu khí Việt Nam thực hiện ý nguyện của Bác Hồ (23/7/1959 – 23/7/2019).
Tại Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (bản Noong Ổn, tỉnh Udonthani, Thái Lan), Đảng bộ VPI và PVU đã tổ chức Lễ báo công dâng Bác và Lễ sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh.
Tham dự chương trình có TS. Phan Ngọc Trung – Ủy viên BCH Đảng bộ, Thành viên HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam; Hội người Việt Nam tại Udonthani, Thái Lan; các đại biểu đại diện cho cán bộ, đảng viên, người lao động VPI và PVU.

TS. Nguyễn Hồng Minh – Bí thư Đảng ủy, Phó Viện trưởng VPI báo công với Bác 6 thành tựu nổi bật của VPI trong hơn 40 năm xây dựng và phát triển.

Tại Lễ báo công, TS. Nguyễn Hồng Minh – Bí thư Đảng ủy, Phó Viện trưởng VPI đã thay mặt cán bộ, đảng viên và người lao động báo cáo với Bác 6 thành tựu nổi bật của VPI trong chặng đường hơn 40 năm xây dựng và phát triển. Trong đó, VPI đã xây dựng được các trung tâm chuyên ngành nghiên cứu đồng bộ, hoàn chỉnh từ nghiên cứu tìm kiếm thăm dò khai thác, đến nghiên cứu phát triển công nghiệp chế biến và nghiên cứu kinh tế dầu khí.

Đoàn tham quan Khu trưng bày các hình ảnh tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

VPI đã giúp Chính phủ xây dựng chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể cho ngành Dầu khí, phản biện/thẩm tra các báo cáo trữ lượng, báo cáo kế hoạch phát triển mỏ đại cương, báo cáo kế hoạch phát triển mỏ tổng thể và báo cáo nghiên cứu khả thi, cung cấp dịch vụ khoa học và công nghệ cho toàn bộ chuỗi giá trị dầu khí, thực hiện các dự án nghiên cứu và phát triển, được cấp bằng sáng chế và cung cấp các phần mềm, hóa chất, sản phẩm và giải pháp; góp phần bảo vệ chủ quyền và biên giới Quốc gia, xây dựng thương hiệu “Trí tuệ Dầu khí Việt Nam”.
VPI đã đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia và cán bộ nghiên cứu khoa học có trình độ cao; vươn xa chủ động hội nhập quốc tế một cách sâu rộng có hiệu quả – hợp tác, liên kết với một số cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học tiên tiến nhất trên thế giới; xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu khoa học, đào tạo, sản xuất kinh doanh hiện đại nhất khu vực; xây dựng được truyền thống văn hóa VPI về tinh thần trách nhiệm, tương thân tương ái và công tác an sinh xã hội “Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”.

TS. Nguyễn Hồng Minh – Bí thư Đảng ủy, Phó Viện trưởng VPI và TS. Nguyễn Anh Đức – Viện trưởng VPI khen thưởng các chi bộ và đảng viên có thành tích xuất sắc trong 3 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị

TS. Phan Minh Quốc Bình – Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng PVU, Phó Viện trưởng VPI khen thưởng các chi bộvà đảng viên có thành tích xuất sắc trong 3 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị

TS. Nguyễn Hồng Minh khẳng định: Nguyện noi gương Bác, VPI sẽ tiếp tục phát huy truyền thống dân tộc Anh hùng, đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn thử thách, quyết tâm thực hiện thắng lợi Di nguyện của Bác, trước hết là sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; xây dựng VPI trở thành Học viện Dầu khí Việt Nam.
Đồng thời, cán bộ, đảng viên, người lao động VPI tích cực đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, lao động sáng tạo, thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức và phong cách theo tấm gương của Bác, xứng đáng là đơn vị Anh hùng Lao động. Mỗi cán bộ, đảng viên, người lao động VPI tự soi mình vào tấm gương vĩ đại của Bác để khắc phục khuyết điểm và phát huy ưu điểm, thành tích đã đạt được trong suốt chặng đường qua; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác để hoàn thiện bản thân, cùng nhau đoàn kết xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, VPI phát triển bền vững.

TS. Phan Ngọc Trung – Thành viên HĐTV PVN, Lãnh đạo VPI và PVU khen thưởng các chi bộ và đảng viêncó thành tích xuất sắc trong 3 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị

Trong chương trình, Đảng bộ VPI, PVU đã tổ chức Lễ sơ kết, khen thưởng các chi bộ và đảng viên có thành tích xuất sắc trong 3 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

TS. Nguyễn Hồng Minh – Bí thư Đảng ủy, Phó Viện trưởng VPI và TS. Nguyễn Anh Đức – Phó Bí thư Đảng ủy, Viện trưởng VPI trao quà cho bà Lê Thị Tuyết Thế – Phó trưởng Ban quản lý Khu lưu niệm, góp phần giữ gìn và tôn tạo Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại tỉnh Udonthani, Thái Lan.

TS Phan Minh Quốc Bình – Hiệu trường PVU trao quà cho bà Lê Thị Tuyết Thế – Phó trưởng Ban quản lý Khu lưu niệm, góp phần giữ gìn và tôn tạo Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại tỉnh Udonthani, Thái Lan.

Nhân dịp này, Đảng bộ VPI, PVU đã trao quà cho Ban quản lý Khu lưu niệm, góp phần giữ gìn và tôn tạo Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại bản Noong Ổn, tỉnh Udonthani, Thái Lan và tổ chức chương trình giao lưu văn nghệ “Lời ca dâng Bác” với Hội người Việt Nam tại Udonthani, Thái Lan.

Đoàn tham quan ngôi nhà lá ba gian giản dị, ghi dấu thời gian Bác hoạt động cách mạng tại Thái Lan từ năm 1928 – 1929.

Tin & Ảnh: Tòa soạn TCDK