Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã trải qua một năm thành công vượt thách thức, thiết lập nhiều kỷ lục trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhân dịp đầu Xuân Quý Mão 2023, TS Lê Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Petrovietnam đã chia sẻ về những dự định, kế hoạch của Petrovietnam trong năm 2023.

PV: Trước tiên xin được chúc mừng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã chinh phục những kỷ lục mới trong năm 2022, cũng xin chúc mừng cá nhân ông được vinh danh Doanh nhân tiêu biểu nhất Việt Nam năm 2022. Nhìn lại năm qua, xin ông cho biết những biện pháp cơ bản để Petrovietnam thực hiện thắng lợi kế hoạch sản xuất kinh doanh và phát triển bền vững?

TS Lê Mạnh Hùng: Năm 2022, để thực hiện được thắng lợi kế hoạch sản xuất kinh doanh và phát triển bền vững, Petrovietnam đã tập trung vào 8 nhóm nhiệm vụ:

Đầu tiên, cập nhật và điều chỉnh chiến lược phát triển Petrovietnam dựa trên những khó khăn, những thách thức, những cơ hội đã nghiên cứu, cập nhật từ thực tiễn hoạt động của Petrovietnam và trình các cơ quan thẩm quyền kế hoạch phát triển giai đoạn 2021-2025 cũng như điều chỉnh chiến lược phát triển Tập đoàn đến năm 2035 và tầm nhìn đến năm 2045.


Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng giới thiệu với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo các bộ, ngành về hoạt động khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ

Thứ hai, Petrovietnam đã tập trung củng cố và kiện toàn công tác quản trị gắn với tái cấu trúc và đổi mới doanh nghiệp. Thời gian qua, Tập đoàn đã triển khai hệ thống hóa bộ quy chế, quy định về quản trị doanh nghiệp có tham khảo và ứng dụng thông lệ quốc tế; trong đó, thực hiện phân cấp, phân quyền đồng bộ với hệ thống và mô hình tổ chức, mô hình kinh doanh, mô hình quản trị của Tập đoàn. Cùng với đó căn cứ vào mục tiêu chiến lược, Petrovietnam đã xây dựng đề án tổ chức, phân bổ lại nguồn lực, sắp xếp lại các doanh nghiệp trong Tập đoàn theo hướng tinh gọn, hiệu quả và cạnh tranh hơn.

Thứ ba, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân sự. Với trên dưới 60 ngàn người lao động Dầu khí và với chiến lược cập nhật, hệ thống quản trị, mô hình sau tái cấu trúc, Petrovietnam cần thiết phải xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ với khung năng lực, mục tiêu và chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng việc vận hành, quản trị hệ thống trong hiện tại cũng như trong tương lai của Tập đoàn.

Thứ tư, Petrovietnam tập trung vào quản trị các nguồn lực tài chính gắn với các hoạt động đầu tư của Tập đoàn. Việc đó đảm bảo Petrovietnam có nguồn lực và hiệu suất sử dụng tài sản tốt nhất. Bên cạnh đó, quản trị tài chính và dòng tiền sẽ giúp Petrovietnam quản trị chi phí tối ưu cũng như có được dòng tiền liên tục, ổn định, thông suốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư của Tập đoàn. Cùng với đó quản trị tốt công tác đầu tư thông qua quản trị danh mục đầu tư, trong đó tập trung vào các dự án trọng điểm.

Thứ năm, tập trung xây dựng danh mục sản phẩm, dịch vụ và hàng hóa chiến lược của Petrovietnam hiện nay, cũng như trong tương lai để có kế hoạch kinh doanh và phát triển cũng như mở rộng thị trường. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để Petrovietnam tạo lực kéo cho các sản phẩm tương lai cũng như mở rộng thị phần cho các sản phẩm hiện tại trên thị trường trong và ngoài nước.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng kiểm tra hoạt động vận hành khai thác tại mỏ Sao Vàng – Đại Nguyệt

Thứ sáu, tập trung xây dựng hệ thống quản trị rủi ro của doanh nghiệp theo mô hình của COSO và ERM. Tức là quản trị rủi ro là theo 3 lớp. Lớp thứ nhất là thông qua hệ thống điều hành trực tiếp sở hữu rủi ro; lớp thứ hai là Ban Tổng giám đốc và lớp thứ ba là HĐTV để đảm bảo rủi ro trong các nhóm của Petrovietnam được kiểm soát chặt chẽ.

Thứ bảy, tập trung phát triển và xây dựng tái tạo văn hóa doanh nghiệp.

Và cuối cùng, tập trung cùng với các bộ ngành, cơ quan hoàn thiện và thúc đẩy việc hoàn thiện cơ chế, thể chế quản trị đối với lĩnh vực dầu khí.

Hiện, Petrovietnam đang cùng Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan hoàn thiện dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Dầu khí năm 2022, tạo nền tảng quan trọng để Petrovietnam triển khai các hoạt động trong lĩnh vực cốt lõi. Đồng thời, Petrovietnam đang xây dựng dự thảo điều chỉnh điều lệ tổ chức hoạt động của Tập đoàn thay thế cho Nghị định 07 ban hành về tổ chức hoạt động của Petrovietnam trước đây trong điều kiện chiến lược mới, môi trường kinh doanh mới và cập nhật những khó khăn mới của Petrovietnam cần được tháo gỡ.

PV: Xin ông cho biết quyết tâm hiện thực hóa Khát vọng phát triển ngành Dầu khí Việt Nam được Petrovietnam thể hiện bằng những chiến lược, giải pháp gì?

TS Lê Mạnh Hùng: Hơn 60 năm truyền thống, Petrovietnam đã luôn thực hiện tốt sứ mệnh của mình trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; là đầu tàu phát triển kinh tế, xã hội; tiên phong ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực Dầu khí. Sứ mệnh đó hỗ trợ cho mục tiêu dài hạn, tầm nhìn, khát vọng của Tập đoàn hướng đến mục tiêu năm 2035 xây dựng Petrovietnam trở thành tập đoàn kinh tế hàng đầu của đất nước và khu vực, hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, công nghệ và công nghiệp, đồng bộ trong tất cả các khâu, có tiềm lực tài chính mạnh, có năng lực khoa học công nghệ, đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn trong nước và quốc tế.

Những năm gần đây, Petrovietnam liên tục đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, đặc biệt là khủng hoảng do đại dịch Covid-19, xung đột địa chính trị và giá dầu diễn biến bất thường. Nhưng với truyền thống và giá trị cốt lõi được hun đúc qua hơn 6 thập niên, Petrovietnam đã thật sự bản lĩnh, quản trị biến động, ứng phó với tác động kép, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Từ thực tiễn đó, để tiếp tục vượt qua những khó khăn, thách thức trong thời gian tới, Petrovietnam định hướng tiếp tục củng cố văn hóa nền tảng và xây dụng văn hóa bản sắc của mình trên cơ sở giá trị văn hóa cốt lõi của Petrovietnam, đồng thời cập nhật xu hướng mới của thế giới như xu hướng về chuyển dịch năng lượng, chuyển đổi số, thế giới phẳng… trong quản trị, cũng như triển khai các hoạt động của Tập đoàn.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Lê Mạnh Hùng kiểm tra, đôn đốc tiến độ Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2

Nội tại Petrovietnam cũng có sự thay đổi rất lớn trong những năm qua. Về cấu trúc tổ chức, mô hình hoạt động, từ chỗ hầu hết các đơn vị 100% vốn nhà nước hoặc nhà nước chi phối, nay đã có rất nhiều công ty thành viên của Petrovietnam chuyển sang công ty cổ phần, liên doanh, liên kết… Nguồn nhân lực cũng có sự biến động. Các thế hệ tiếp nối thay thế nhau, khó khăn, thuận lợi cũng thay đổi theo thời gian.

Thực tế đó chính là những yếu tố biện chứng để ban lãnh đạo Petrovietnam xây dựng triết lý quản trị hiệu quả trong thời kỳ biến động. Mô hình càng lớn sẽ chịu tác động càng nhiều. Gốc rễ là phải quản trị, thay đổi một cách căn bản kể cả trong văn hóa doanh nghiệp, với mục tiêu cuối cùng là thích ứng kịp thời, giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái kinh doanh, tận dụng được các cơ hội để thu về thành quả; kiên trì quan điểm tái tạo văn hóa đi trước, tạo đà cho tái tạo kinh doanh.

Thực tế trong nhiều năm qua, quản trị biến động đã thấm sâu, trở thành văn hóa trong quản trị doanh nghiệp của Petrovietnam, không chỉ ở Công ty mẹ mà còn ở tất cả các đơn vị thành viên. Petrovietnam luôn chú trọng bám sát diễn biến của thị trường, cập nhật các chính sách, sự phát triển của khoa học công nghệ, của môi trường tự nhiên, chính trị xã hội…, từ đó nghiên cứu và xây dựng nhiều kịch bản, giải pháp tương ứng. Từ đầu năm 2020, Petrovietnam đã ban hành Quyết định về “Bộ giải pháp ứng phó” cho 5 nhóm quản trị, thị trường, tài chính, đầu tư và cơ chế chính sách. Trước mỗi kỳ điều hành, lãnh đạo các đơn vị đều chủ động thực hiện các dự báo, xây dựng kịch bản và điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp thực tế. Petrovietnam phân cấp đồng bộ, giao quyền cho người hiểu rõ nhất về công việc ra quyết định và chịu trách nhiệm, để có những quyết định nhanh chóng, chính xác và ứng biến kịp thời. Sự lãnh đạo, điều phối nguồn lực, hỗ trợ, cùng với kiểm tra, giám sát, quản trị rủi ro từ Petrovietnam đến các đơn vị thành viên phải nhất quán, có hệ thống, kết nối chuỗi giá trị, đảm bảo tính liên tục và hướng đích…

Có thể nói, quản trị biến động là yếu tố rất quan trọng mà Petrovietnam đã, đang và sẽ luôn đặt lên hàng đầu, bởi bản chất của vạn vật là luôn vận động, thay đổi không ngừng để phát triển.

Để tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới, hoàn thành sứ mệnh trong giai đoạn mới, lãnh đạo Tập đoàn kêu gọi toàn thể cán bộ, người lao động Dầu khí cần gìn giữ và phát huy bản lĩnh, trí tuệ của người Dầu khí; chuyên nghiệp trong mọi hoạt động; duy trì kỷ luật, kỷ cương; phát huy giá trị nhân văn, nghĩa tình trong Văn hóa Dầu khí.

PV: Ông đánh giá thế nào về cơ hội của Petrovietnam trong phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo ngoài khơi (NLTTNK)? Điều gì đang gây vướng mắc cho Petrovietnam hiện nay để phát huy được lợi thế của mình trong phát triển NLTTNK?

TS Lê Mạnh Hùng: Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam và trên thế giới, khi các dạng năng lượng hóa thạch đang dần suy giảm thì năng lượng tái tạo, đặc biệt là NLTTNK sẽ là dạng năng lượng của tương lai, đáp ứng được nhu cầu năng lượng của Việt Nam trong những năm tới. Dự thảo Quy hoạch Điện VIII cũng đặt chỉ tiêu công suất điện gió ngoài khơi đạt 7 GW, chiếm 4,8% tổng công suất nguồn điện đến năm 2030 và đạt 66,5 GW vào năm 2045. Trong tương lai gần, NLTTNK là một trong những loại hình năng lượng mà Petrovietnam sẽ tập trung nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững bên cạnh nguồn năng lượng hóa thạch truyền thống. Với định hướng Petrovietnam phải chủ động, tiên phong trong lĩnh vực công nghệ NLTTNK, có vai trò đầu mối trong ngành công nghiệp NLTTNK, Petrovietnam đã phân tích, đánh giá thách thức, cơ hội, năng lực kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực này, đánh giá lĩnh vực thế mạnh của Petrovietnam cũng như tình hình tham gia NLTTNK của các đơn vị trong chuỗi cung ứng; xây dựng lộ trình đầu tư cơ sở vật chất, xác định mô hình hợp tác để Petrovietnam không ngừng nâng cao năng lực kỹ thuật, sớm làm chủ công nghệ NLTTNK; đề xuất các cơ chế chính sách liên quan để tạo ưu thế cho các doanh nghiệp trong nước.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng nhận vinh danh Top 10 doanh nhân tiêu biểu nhất Việt Nam năm 2022

Là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực khai thác dầu khí với địa điểm hoạt động trên biển là chính, Petrovietnam và các đơn vị thành viên có nhiều lợi thế, tiềm năng, năng lực để triển khai các dự án NLTTNK. Điểm tương đồng giữa các dự án NLTTNK và các công trình dầu khí trên biển đều là các dự án với kết cấu bằng thép được thi công chế tạo hoàn thiện trên bờ và lắp đặt ngoài khơi. Sự tăng trưởng của NLTTNK sẽ mang lại cơ hội cho những đơn vị cung cấp dịch vụ dầu khí ngoài khơi như Vietsovpetro, PTSC, PVC-MS… với kinh nghiệm, nguồn lực, thế mạnh, năng lực triển khai các gói công việc trong việc xây dựng các dự án NLTTNK; hệ thống cảng, cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng các yêu cầu triển khai dự án NLTTNK. Điều này đã được chứng minh khi gần đây, PTSC đã chủ động tham gia cung cấp dịch vụ cho phần lớn các dự án điện gió, điện gió ngoài khơi cho các nhà thầu trong và ngoài nước. Vietsovpetro cũng đã và đang cung ứng các dịch vụ liên quan để thực hiện các dự án trên biển. Có thể khẳng định, Petrovietnam là doanh nghiệp đứng đầu Việt Nam về cơ khí chế tạo, thi công và xây lắp các công trình dầu khí ngoài khơi, được khách hàng quốc tế đánh giá cao.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng trao đổi với các chuyên gia tại công trường lắp ráp Dự án Điện gió ngoài khơi đế nổi Hywind Tampen của Equinor tại Gulen, Na Uy

Quan trọng nhất, Petrovietnam đảm bảo năng lực triển khai ở tất cả giai đoạn của dự án NLTTNK. Với bề dày kinh nghiệm, năng lực, nguồn lực và hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có trong lĩnh vực khai thác dầu khí ngoài khơi, việc Petrovietnam tham gia vào ngành công nghiệp NLTTNK sẽ đem lại lợi ích to lớn, tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có của các đơn vị trong nước, tránh lãng phí đầu tư, có thể xuất khẩu dịch vụ ra thị trường quốc tế và đặc biệt góp phần vào công tác bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.

Lãnh đạo Tập đoàn đã chỉ đạo các đơn vị tập trung triển khai rà soát đội ngũ nhân sự làm việc trong lĩnh vực NLTTNK để kiện toàn ngay. Đây chính là nguồn lực cơ bản và quan trọng của Petrovietnam trong việc tiếp cận với một lĩnh vực mới, từ đó có thể triển khai định hướng chiến lược về chuyển dịch năng lượng của Petrovietnam một cách hiệu quả, phù hợp. Song song với việc kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực, Petrovietnam và các đơn vị cần tập trung triển khai đề án làm chủ công nghệ NLTTNK từ thiết kế cơ bản, chế tạo, cung ứng, lắp đặt, vận hành, chạy thử, bảo dưỡng dự án NLTTNK.

Về chiến lược dài hạn, Tập đoàn đã tập trung đánh giá thị trường NLTTNK trong nước, khu vực và trên thế giới để có cái nhìn tổng quan, phục vụ cho việc hoạch định chiến lược lâu dài cho lĩnh vực này. Từ đó, xây dựng chiến lược cụ thể cho phát triển NLTTNK trong chiến lược chuyển dịch năng lượng của Petrovietnam, xác định mô hình về đầu tư, triển khai công nghiệp năng lượng tái tạo một cách phù hợp, hiệu quả trên cơ sở tận dụng thế mạnh của Tập đoàn và các đơn vị, kết hợp với phát triển chiến lược về dầu khí.

Nội dung quan trọng dài hạn khác là tập trung tháo gỡ cơ chế, tạo hành lang pháp lý cho lĩnh vực NLTTNK. Tập đoàn đã giao cho Viện Dầu khí Việt Nam nghiên cứu, xây dựng dự thảo sáng kiến lập pháp về hành lang pháp lý liên quan đến NLTTNK, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã gợi mở giao nhiệm vụ này cho Tập đoàn, đây sẽ là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này trong tương lai.

Từ nay đến 2030, thời điểm chuyển mình của các doanh nghiệp năng lượng trong đó có Petrovietnam, còn rất ngắn. Tập đoàn và các đơn vị trong ngành cần phải chuẩn bị nguồn lực, sẵn sàng tạo đà cho việc tái tạo kinh doanh, mở rộng sang lĩnh vực NLTTNK đầy tiềm năng và lợi thế.

PV: Ông có thể chia sẻ thêm về mục tiêu của Petrovietnam trong thời gian tới?

TS Lê Mạnh Hùng: Năm 2023 được dự báo sẽ có nhiều bất lợi như giá dầu giảm, nhu cầu thị trường thấp, suy thoái kinh tế toàn cầu… Đặc biệt, tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, EU…, lãi suất, lạm phát tăng mạnh; cuộc chiến Nga – Ukraine chưa kết thúc… dẫn đến xu hướng thu hẹp sản xuất trên thế giới, xuất khẩu suy giảm, giảm nhu cầu tiêu thụ điện, khí… Đây là những rủi ro mà Petrovietnam phải tiếp tục quản trị biến động, xây dựng kế hoạch dự phòng, tận dụng cơ hội để hoàn thành cao nhất kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2023.

Bên cạnh đó, Petrovietnam tiếp tục quản trị tốt hệ thống sản xuất và tài chính doanh nghiệp; triển khai các dự án đầu tư lớn, trọng điểm như: Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 phải đi vào vận hành thương mại trong quý I/2023; có phương án cho Dự án Nhiệt điện Long Phú 1; Dự án Nâng cấp và mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất; chủ trương Dự án Tổ hợp lọc hóa dầu và Dự trữ năng lượng Long Sơn… Đặc biệt, Dự án Khí điện Lô B phải có phương án triển khai đáp ứng thời điểm dòng gas đầu tiên tối ưu nhất.

Ngoài ra, Petrovietnam cũng tiếp tục xử lý triệt để các dự án khó khăn, tìm phương án thoát lỗ cho các công ty đang gặp khó.

Bước sang năm 2023, Petrovietnam tiếp tục củng cố và đổi mới công tác quản trị mà quản trị biến động là trọng tâm; tiếp đến là quản trị dựa trên nền tảng số đã hình thành trong những năm qua; thúc đẩy kết nối các nguồn lực để đầu tư mạnh mẽ các dự án lớn; mở rộng hợp tác đầu tư phát triển và kinh doanh quốc tế dựa trên lợi thế về quan hệ của Việt Nam với các nước và thị trường, tập trung tại Đông Nam Á, Nga và Trung Đông, Bắc Mỹ…

Với Petrovietnam, “tương lai sẽ là lực kéo, hiện tại và quá khứ chính là lực đẩy” để tiếp tục phát triển bền vững và vươn ra biển lớn.

PV: Xin cảm ơn ông về buổi trao đổi và xin chúc cho Petrovietnam sẽ tiếp nối truyền thống để chinh phục những đỉnh cao mới!

Sau Nam Phi và Indonesia, Việt Nam là quốc gia thứ ba đạt được thỏa thuận thành lập Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (Just Energy Transition Partnership – JETP). Những vấn đề liên quan cần được cân nhắc khi triển khai JETP tại Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu của Hiệp định Paris đúng thời điểm, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh năng lượng phù hợp với chính sách của Việt Nam. TS. Đặng Thị Thúy Hạnh – chuyên gia của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) trao đổi về chủ đề này.

 

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh – chuyên gia của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI)

Phóng viên: JETP là cơ chế hợp tác tài chính mới với mục đích giúp một số nền kinh  tế  mới  nổi  phụ  thuộc  nhiều  vào  than  đá  thực  hiện  quá trình chuyển  sang sử dụng năng lượng sạch một cách công bằng. Xin chị cho biết các điểm chính trong JETP của Việt Nam?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Theo JETP được ký ngày 14/12/2022, có ít nhất 15,5 tỷ USD sẽ được tài trợ dưới hình thức chủ yếu là cho vay ưu đãi trong khoảng từ 3 – 5 năm để hỗ trợ cho quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng, một nửa số đó được huy động từ tài chính khu vực công với các điều khoản ưu đãi hơn thông thường. Một nửa còn lại được huy động và tạo điều kiện từ tài chính tư nhân, để Việt Nam:

Phóng viên: Tại COP27, Nam Phi đã công bố Kế hoạch thực hiện JETP (JETP IP), trong đó đưa ra các yêu cầu đầu tư ưu tiên trong lĩnh vực điện, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng mới và lĩnh vực hydrogen xanh. Xin chị cho biết Nam Phi đã xây dựng kế hoạch như thế nào?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Để đạt được các mục tiêu của JETP IP, khoản tài chính cần thiết Nam Phi đưa ra là 98 tỷ USD, cao hơn nhiều so với mức 8,5 tỷ USD được cam kết hỗ trợ. Điều này cho thấy nhu cầu đầu tư cho chuyển dịch năng lượng rất cao, phần hỗ trợ theo JETP chỉ chiếm 1 tỷ trọng nhỏ. Khoản tài trợ 8,5 tỷ USD của Nhóm Đối tác Quốc tế (International Partners Group – IPG) sẽ hướng tới việc hỗ trợ các nhu cầu cấp thiết được thể hiện trong Kế hoạch đầu tư (Just Energy Transition Investment Plan – JET IP), đó là i) tăng cường và mở rộng lưới truyền tải và phân phối; ii) ngừng hoạt động và tái sử dụng các nhà máy than; iii) đẩy nhanh đầu tư năng lượng tái tạo; iv) các biện pháp sử dụng năng lượng hiệu quả và v) chuẩn bị và bố trí cơ sở hạ tầng xã hội để tạo điều kiện chuyển dịch năng lượng công bằng cho người lao động, cộng đồng và các địa điểm liên quan bị ảnh hưởng, bao gồm cơ hội tạo việc làm ở các khu vực khai thác than bị ảnh hưởng. Như vậy, JETP giống như 1 gói hỗ trợ mang tính khơi mào, thúc đẩy nhanh hơn quá trình dịch chuyển. Quốc gia nhận hỗ trợ vẫn phải tự lực, huy động mọi nguồn lực khác có thể, kể cả trong nước và quốc tế.

Phóng viên: Theo chị, IPG có hỗ trợ cho việc chuyển từ sử dụng than sang sử dụng khí đốt như “cầu nối” trước khi chuyển hẳn sang sử dụng năng lượng tái tạo? 

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Quan điểm sử dụng khí từ nguồn hóa thạch làm cầu nối trong quá trình tiến tới Net Zero đang có thay đổi. Theo Bộ Kinh tế và Hành động Khí hậu Liên bang, CHLB Đức, trong bản cập nhật mới nhất của Chiến lược hydrogen Quốc gia, lần đầu tiên hydrogen lam, sản xuất từ nguồn hóa thạch kết hợp sử dụng CCUS để khử thải CO2, cũng sẽ được xúc tiến. Điều này chưa được đề cập tới trong lần xuất bản thứ nhất vào năm 2020. Tuy nhiên, hydrogen lam sẽ không đủ điều kiện nhận các khoản trợ cấp theo Hợp đồng về chênh lệch (Contracts for Difference) đã được lên kế hoạch của EU.

Có thể thấy, việc ưu tiên năng lượng tái tạo là hàng đầu nhưng cũng cần tính đến khả năng đáp ứng của chúng trong trung hạn và dài hạn để xác định mức độ ưu tiên và có giải pháp thích hợp, như vậy sẽ đảm bảo quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng. Thêm vào đó, JETP cũng thừa nhận Việt Nam có thể sử dụng CCUS cho các ngành khó giảm thải để đạt mục tiêu.

Theo Viện Phát triển Bền vững Quốc tế (IISD), việc chuyển dịch từ than đá sang khí hóa thạch, thông qua JETP hoặc bất kỳ nguồn tài chính công quốc tế, sẽ không tạo thành sự chuyển dịch bền vững và công bằng mà mô hình JETP đại diện. Cho đến nay, các quốc gia tài trợ đã đồng ý rằng tài chính của JETP không được sử dụng cho nhiên liệu hóa thạch. Trong trường hợp này, nếu cần chuyển dịch từ than sang khí như một bước đệm cho quá trình chuyển dịch thì quốc gia chuyển dịch cần có kế hoạch huy động từ các nguồn khác.

Cấu trúc các quốc gia trong JETP.

JETP đầu tiên được công bố tại Hội nghị các bên về biến đổi khí hậu lần thứ 26 của Liên hợp quốc (COP26) ở Glasgow, theo đó Nam Phi được Pháp, Đức, Vương quốc Anh, Mỹ và EU cam kết tài trợ 8,5 tỷ USD. Sau Nam Phi sẽ là JETP với các quốc gia khác, bao gồm Indonesia, Việt Nam, Ấn Độ (dự kiến vào tháng 7/2023) và Senegal.

Phóng viên: Trong bối cảnh nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng cao, việc tăng mục tiêu giảm phát thải và đẩy nhanh đạt đỉnh thải vào năm 2030 của khí nhà kính nói chung và điện nói riêng là thách thức rất lớn. Theo chị, cần làm gì để thúc đẩy phát triển nhanh năng lượng tái tạo?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Giải pháp khả thi khi phải giảm bớt điện than là thúc đẩy triển khai nhanh năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió). Như vậy, cần phải tích hợp năng lượng tái tạo ở mức cao hơn, do đó đòi hỏi lượng vốn rất lớn đầu tư cho hệ thống lưới truyền tải, hạ tầng công nghệ điều độ hệ thống, công nghệ AI, phát triển công nghệ về dự trữ năng lượng như thủy điện tích năng, pin tích trữ điện, các công nghệ hydrogen, CCUS…

Vì chuyển dịch năng lượng sẽ tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới, nên hầu như chưa có hành lang pháp lý cho những lĩnh vực mới này. Cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm các nước, xây dựng lộ trình để ban hành cơ sở pháp lý và chính sách, cơ chế cho những lĩnh vực mới này.

Bên cạnh đó, nhu cầu về công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản lý , áp dụng công nghệ, vận hành trong chuỗi giá trị các lĩnh vực điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, CCUS, hydrogen. Việt Nam cần tranh thủ tài trợ để nhận chuyển giao công nghệ, đào tạo, tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.

Phóng viên: Gói hỗ trợ đã công bố cho Nam Phi, Indonesia và Việt Nam là khởi điểm cho quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng. Theo chị, Việt Nam cần chuẩn bị những gì để triển khai JETP?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Trong thời gian 1 năm tới đây dành cho việc đàm phán chi tiết cụ thể về các điều khoản tài chính, kế hoạch cải cách, cơ cấu điều phối…, để xây dựng kế hoạch huy động nguồn lực (Resources Mobilization Plan), Việt Nam cần lưu ý xây dựng RMP khả thi, khoa học, tận dụng nguồn tài trợ này phục vụ hiệu quả cho quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng.

Việc triển khai JETP cần được chú trọng và xem xét thấu đáo về cách thức hoạt động của các loại mô hình tài trợ sáng tạo này như thế nào, sẽ đạt được gì cho giảm thiểu biến đổi khí hậu và những nguy cơ nào cần tránh.

Các khía cạnh “công bằng” cần có tỷ trọng hợp lý trong gói tài trợ. Trong khi các khoản vay quốc tế, bảo lãnh và tài chính tư nhân sẽ giúp tăng quy mô đầu tư cơ sở hạ tầng, khoản tài trợ không hoàn lại (hoặc ưu đãi cao) quan trọng hơn để giảm bớt tác động đối với những cộng đồng bị ảnh hưởng tiêu cực bởi quá trình chuyển dịch kinh tế.

Mọi chính sách đều có thể được điều chỉnh cho phù hợp tình hình thực tế đối với cả hai bên, bên tài trợ và bên nhận tài trợ. Khi các nguyên tắc sử dụng tài chính công của JETP được áp dụng linh hoạt dựa trên những tư duy được cập nhật mới nhất để quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai JETP đạt mục tiêu của Hiệp định Paris đúng thời điểm, đồng thời bảo đảm hiệu quả kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh năng lượng, phù hợp với chính sách của Việt Nam.

Chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam theo đánh giá của UNDP, có thể cần đến 60 tỷ USD/năm từ nay cho đến 2050. JETP là bước đầu và sẽ cần nhiều chương trình hỗ trợ khác, cần huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn chị!

 

Ngày 3/11/2022, Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) và Air Liquide tổ chức Hội thảo công nghệ thúc đẩy xu hướng chuyển dịch  năng lượng tại Việt Nam, tập trung vào 3 lĩnh vực chính là điện gió ngoài khơi, hydrogen và CCUS.

Tham dự Hội thảo có lãnh đạo và chuyên gia của Bộ Công Thương, Air Liquide, Siemens Energy, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam), Liên doanh Việt – Nga “Vietsovpetro”, Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP),  Tổng công ty CP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC), Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí – CTCP (PVFCCo), Công ty CP Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC), Viện Dầu khí Việt Nam, Trường Đại học Dầu khí Việt Nam (PVU), Công ty CP Thiết kế Công nghiệp Hóa chất (CECO)…

TS. Nguyễn Anh Đức – Viện trưởng Viện Dầu khí Việt Nam phát biểu khai mạc hội thảo

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Nguyễn Anh Đức – Viện trưởng Viện Dầu khí Việt Nam cho biết Hội thảo sẽ tập trung thảo luận về 3 trụ cột của chuyển dịch năng lượng là điện gió ngoài khơi, hydrogen, CCUS. Đây cũng là cơ hội tốt để các bên nghiên cứu giải quyết các thách thức về công nghệ trong việc ứng dụng hydrogen, CCUS và áp dụng các công nghệ đó trong một số dự án cụ thể cho quá trình chuyển dịch năng lượng, góp phần vào mục tiêu đưa Việt Nam đạt phát thải ròng CO2 bằng 0 vào năm 2050.

TS. Nguyễn Trung Khương – Ban Chiến lược, Petrovietnam giới thiệu định hướng chuyển dịch năng lượng của Petrovietnam

Tại Hội thảo,  TS. Nguyễn Trung Khương – Ban Chiến lược Petrovietnam đã phân tích xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới, đánh giá tác động của xu hướng chuyển dịch năng lượng đối với lĩnh vực dầu khí và định hướng của Petrovietnam để thích ứng với xu hướng chuyển dịch năng lượng.

Bà Claire Rosseler – Tổng giám đốc Air Liquide Việt Nam giới thiệu về lộ trình và chiến lược của Air Liquide tại Việt Nam

Bà Claire Rosseler – Tổng giám đốc Air Liquide Việt Nam đã giới thiệu về lộ trình chuyển dịch năng lượng của Air Liquide và chiến lược phát triển tại Việt Nam. Air Liquide và Siemens Energy đã giới thiệu các công nghệ chuyển đổi năng lượng mới nhất hiện nay như Syngas, sản xuất methanol từ CO2, sản xuất hydrogen xanh, Biomethane/BioLNG, sản xuất ammonia xanh (xanh lam và xanh lá), công nghệ điện gió ngoài khơi và điện phân H2

Ông Jan Kollmus – Giám đốc điều hành Air Liquide E&C Singapore kết luận Hội thảo 

Kết luận Hội thảo, ông Jan Kollmus – Giám đốc điều hành Air Liquide E&C Singapore khẳng định chuyển dịch năng lượng cần có tư duy hợp tác, đặc biệt là hợp tác về công nghệ để tìm ra giải pháp toàn diện hướng tới mục tiêu giảm phát thải CO2 trên phạm vi toàn cầu. Lãnh đạo Air Liquide bày tỏ mong muốn hợp tác với Petrovietnam để triển khai các giải pháp, ứng dụng công nghệ mới trong xu hướng chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam.

VPI là tổ chức khoa học – công nghệ hàng đầu của công nghiệp dầu khí Việt Nam, có khả năng triển khai nghiên cứu phát triển và cung cấp dịch vụ khoa học – kỹ thuật cho toàn bộ chuỗi hoạt động dầu khí. VPI tập trung xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, góp phần đưa Petrovietnam phát triển bền vững và tăng năng lực cạnh tranh thông qua tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh và đột phá trong ứng dụng và sáng tạo công nghệ.

Air Liquide là doanh nghiệp hàng đầu thế giới về khí, công nghệ và dịch vụ cho ngành công nghiệp và y tế.  Air Liquide đã và đang phát triển các công nghệ tiên tiến trong việc làm chủ toàn bộ chuỗi hydrogen (sản xuất, lưu trữ và phân phối) và có kinh nghiệm trong quản lý CO2, từ thu giữ, tinh chế và hóa lỏng để lưu trữ và vận chuyển từ nhiều nguồn khác nhau. Air Liquide cam kết mạnh mẽ đối với quá trình chuyển đổi năng lượng, thông qua các khoản đầu tư gần đây, bao gồm phát triển các ứng dụng hydrogen và hệ sinh thái cho ngành công nghiệp.

 

Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) cho biết thị trường hydrogen tiềm năng có thể đạt sản lượng 22 triệu tấn/năm vào năm 2050. Sự phát triển hydrogen trong các lĩnh vực cũng sẽ tạo ra những thị trường mới với tổng giá trị đạt 100 tỷ USD vào năm 2035 và 1.200 tỷ USD vào năm 2050.

Giá trị của các thị trường tiềm năng khi phát triển hydrogen vào các năm 2035 và 2050 tại Việt Nam (tỷ USD)

Theo TS. Nguyễn Hữu Lương – chuyên gia của VPI, với giả định hydrogen bắt đầu được áp dụng thí điểm cho các lĩnh vực tiềm năng từ năm 2025, đến năm 2030, 1 – 2% hydrogen sẽ được thay thế cho nhu cầu nguyên, nhiên liệu hóa thạch của những lĩnh vực này và đến năm 2050, tỷ lệ sử dụng hydrogen đạt 20 – 30% thì thị trường hydrogen sạch tại Việt Nam có thể đạt khoảng 22 triệu tấn/năm vào năm 2050, tương ứng 2,8% nhu cầu hydrogen của thế giới.
Nhu cầu hydrogen lớn nhất đến từ lĩnh vực giao thông vận tải, kế tiếp là xi măng, điện và thép, rồi đến các ngành lọc – hóa dầu và sản xuất đạm. Sự phát triển hydrogen trong các lĩnh vực này sẽ đóng góp giảm 5,4% tổng lượng phát thải quốc gia vào năm 2030. Không những thế, sự phát triển hydrogen tại Việt Nam cũng sẽ tạo điều kiện phát triển các yếu tố về kinh tế, xã hội và các ngành công nghiệp liên quan.
Để hydrogen phát triển và hoàn thiện chuỗi giá trị tại Việt Nam, việc thiết lập mục tiêu và lộ trình cùng với chính sách phù hợp là cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của hydrogen đối với hoạt động của lĩnh vực dầu khí và năng lượng nói chung, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã ban hành chương trình khung và xây dựng kế hoạch triển khai chương trình nghiên cứu khoa học dài hạn về phát triển sản xuất, tồn trữ, vận chuyển, phân phối và sử dụng hiệu quả hydrogen tại Việt Nam trong giai đoạn 2021 – 2025. Sản phẩm dự kiến của chương trình sẽ góp phần phát triển Petrovietnam hiệu quả và bền vững trong xu hướng chuyển dịch năng lượng.

Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) khuyến nghị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) tập trung phát triển bền vững lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác (E&P) thông qua tận khai thác dầu, thăm dò/mua mỏ và phát triển chuỗi giá trị khí; đầu tư các lĩnh vực phù hợp xu thế phát thải ít carbon như điện gió ngoài khơi (để tự dùng/sản xuất H2 xanh lá/bơm ép CO2 nâng cao thu hồi dầu hoặc tàng trữ) hay cung cấp dịch vụ (chế tạo, lắp ráp, bảo dưỡng) cho điện gió ngoài khơi; thay đổi mô hình kinh doanh để tăng mức độ “dẻo dai” trước các biến động ngắn hạn (đại dịch như Covid-19) và dài hạn (xu hướng chuyển dịch năng lượng).

Mô hình trung tâm (hub) cung cấp “năng lượng xanh”. Ảnh: VPI

Tại COP26 (11/2021), các quốc gia tập trung thảo luận để đưa ra các chính sách hiện thực hóa thỏa thuận Paris nhằm duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 oC, phấn đấu dưới 1,5 oC trong thế kỷ 21 so với thời kỳ tiền công nghiệp, không phát thải ròng (Net zero) trong giai đoạn 2050 – 2100 và đảm bảo Quỹ hỗ trợ 100 tỷ USD/năm cho các quốc gia đang phát triển giảm phát thải khí nhà kính và khắc phục hậu quả biến đổi khí hậu. 3 giải pháp chính để nhiệt độ toàn cầu tăng ít hơn 2 oC so với thời kỳ tiền công nghiệp là: tăng tỷ trọng điện trong năng lượng cuối cùng từ 20% hiện nay lên 50%; giảm sử dụng than; tăng sử dụng khí thiên nhiên và năng lượng tái tạo kèm lưu trữ trong phát điện và đẩy nhanh sản xuất và sử dụng hydro xanh lam hoặc xanh lá trong giao thông vận tải và công nghiệp, tăng cường thu hồi, sử dụng hoặc tàng trữ CO2 (CCUS).
Trong cam kết quốc gia (NDC) 2020, Việt Nam tự nguyện giảm 9% phát thải CO2 (~ 84 triệu tấn) và giảm 27% (~ 251 triệu tấn) vào năm 2030 nếu có hỗ trợ quốc tế. Tại COP26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã phát biểu “Việt Nam là một nước có lợi thế về năng lượng tái tạo, sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050”.
Bên cạnh xu hướng chuyển dịch năng lượng đang ngày càng mạnh mẽ, đại dịch Covid-19 đã thay đổi thị trường năng lượng toàn cầu, tạo ra trạng thái “bình thường mới” trong đó các công ty dầu khí quốc tế (IOC) như Shell, BP, Total, Eni và cả ExxonMobil tăng cường thoái vốn khỏi lĩnh vực dầu khí truyền thống và chuyển sang đầu tư vào năng lượng tái tạo, trong khi các công ty dầu khí quốc gia (NOC) gia tăng các hoạt động thăm dò khai thác. Dự báo trong trạng thái “bình thường mới” này, các nhà máy điện khí sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với các nhà máy điện gió, mặt trời, biên lợi nhuận lọc dầu khả năng thấp trong dài hạn. Đặc biệt, một số dự án khí đang thăm dò hoặc đang phát triển có phần sở hữu lớn của các IOC có thể bị ảnh hưởng về tiến độ.
VPI đưa ra 3 khuyến nghị để PVN có thể thích ứng và tận dụng trạng thái “bình thường mới”:
1. Với sứ mạng của công ty dầu khí quốc gia và tận dụng lợi thế chưa chịu áp lực giảm phát thải CO2 làm tăng chi phí khai thác, PVN xem xét tập trung phát triển các mỏ dầu có thể đưa vào khai thác sớm (tận thăm dò/tận khai thác dầu xung quanh khu vực đã có hạ tầng) như tại Lô 01-02/17 và Lô 15-1, triển khai giải pháp nâng cao thu hồi dầu sử dụng khí CO2 (EOR kết hợp CCS) cho toàn bộ bể Cửu Long, mua lại các mỏ khí từ các IOC đang chịu áp lực từ cổ đông và cam kết chống biến đổi khí hậu, bán bớt các tài sản nhỏ không thể tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có để phát triển và khai thác cũng như tối ưu chi phí thăm dò/phát triển/khai thác thông qua chuyển đổi số.
2. Tận dụng tiềm năng điện gió ngoài khơi Việt Nam rất lớn (ước tính khoảng 162 – 475 GW theo Ngân hàng Thế giới), năng lực cũng như kinh nghiệm xây dựng/vận chuyển/lắp đặt/bảo dưỡng công trình biển và kinh nghiệm quản lý đầu tư các dự án lớn của các đơn vị trong Tập đoàn, PVN có thể đầu tư điện gió ngoài khơi để tự dùng cho các giàn khai thác hoặc để sản xuất hydro xanh lá từ nước biển hoặc để bơm ép CO2 nhằm tăng cường khai thác dầu hoặc tàng trữ. Trước mắt, PVN có thể liên kết các đơn vị thành viên để chiếm lĩnh thị trường cung cấp dịch vụ (chế tạo, lắp ráp, bảo dưỡng) cho các dự án điện gió ngoài khơi. Đối với các nhà máy chế biến dầu khí, PVN nên sớm đầu tư công nghệ để chuyển đổi cơ cấu sản phẩm chủ yếu từ xăng dầu sang sản phẩm hóa dầu.
3. Chuyển đổi mô hình kinh doanh để tận dụng xu hướng chuyển dịch năng lượng. Với tiềm lực tài chính mạnh, cơ sở hạ tầng sản xuất và phân phối lớn và rộng đã đầu tư, thương hiệu phổ biến trong và ngoài nước, PVN hoàn toàn có thể tạo dựng và vận hành mô hình Trung tâm (Hub) cung cấp “năng lượng xanh” (mô hình cung cấp năng lượng như dịch vụ – EaaS) cho khách hàng trong nước và khu vực. Trong mô hình này, PVN có thể trực tiếp cung cấp giải pháp năng lượng xanh (từ xăng dầu, khí, điện, hydro, NH3) tổng thể, trọn gói cho khách hàng với các đặc tính xanh (do có kết hợp CCUS), an toàn và hiệu quả. Ngoài ra, PVN còn có thể cho thuê hạ tầng phân phối năng lượng bao gồm cảng nhập LNG và đường ống khí tự nhiên/hydro.
Mô hình EaaS sẽ được hoàn chỉnh bởi mô hình “xanh hóa” nguồn năng lượng từ đó tạo ra sản phẩm (thép, xi măng, nhôm, điện, phân bón…) xanh hơn thông qua việc thu hồi, sử dụng hoặc tàng trữ CO2 và giao dịch tín chỉ CO2 trên thị trường quốc tế.
Với tài sản lớn là các mỏ dầu khí và sự hiểu biết về địa chất, thủy động dưới lòng đất trong lãnh thổ và trên thềm lục địa Việt Nam, PVN có thể xác định các cấu tạo tiềm năng để lưu trữ CO2 dài hạn không chỉ cho các khách hàng trong nước mà cả trong khu vực có nhu cầu, đáp ứng các cam kết về giảm phát thải CO2 hoặc muốn “xanh hóa” sản phẩm để giảm thuế carbon biên giới khi xuất khẩu vào các nước như châu Âu, Mỹ, Canada, Nhật Bản… trong tương lai. Trong nghiên cứu của Đại học Quốc gia Singapore (NUS) mà VPI tham gia, tổng tiềm năng lưu trữ CO2 của mỏ Bạch Hổ và Lan Tây sau khi đã khai thác hết dầu khí lên đến 300 triệu tấn, tương đương 33 tỷ USD với giá CO2 ở mức 110 USD/tấn (mức giá tối thiểu để nhiệt độ toàn cầu tăng ít hơn 2 oC so với thời kỳ tiền công nghiệp theo tư vấn Wood Mackenzie). Tiềm năng lưu trữ CO2 của các tầng nước ngầm trên bờ (Cần Giờ) hoặc lân cận các mỏ dầu khí ở Việt Nam sơ bộ được VPI đánh giá cao gấp nhiều lần so với tiềm năng lưu trữ tại các mỏ Bạch Hổ và Lan Tây.
Ngoài ra, khu vực Đông Nam Bộ còn có lợi thế là các nhà máy công nghiệp phát thải nhiều CO2 như thép, xi măng, phân bón được tập trung thành từng cụm trong các khu công nghiệp và đều có đường ống dẫn khí thiên nhiên đến để cung cấp nên thuận lợi cho việc thu hồi, hóa lỏng tập trung và vận chuyển CO2 bằng đường ống (xây mới). Tại khu vực này, PVN đã có đường ống khí Bạch Hổ – Dinh Cố có thể sử dụng vận chuyển CO2 lỏng đến các giàn khai thác tại bể Cửu Long để sử dụng tăng thu hồi dầu (CO2-EOR) cũng như tàng trữ khi đã khai thác hết dầu khí và trong các tầng nước ngầm lân cận.
Nghiên cứu giữa JOGMEC và VPI trong giai đoạn 2007 – 2010 cho thấy việc đầu tư thu hồi CO2 từ các nhà máy điện, đạm, thép, xi măng khu vực Đông Nam Bộ, vận chuyển ra các mỏ bể Cửu Long để sử dụng tăng thu hồi dầu là có hiệu quả nếu được áp dụng trên toàn bể Cửu Long với ước tính tăng đến 12% sản lượng. Công nghệ CO2-EOR đã được minh chứng cụ thể thông qua thực nghiệm pilot “CO2 Huff&Puff” năm 2011 tại mỏ Rạng Đông. Chỉ với 111 tấn CO2 được bơm vào mỏ, sản lượng khai thác dầu đã tăng từ 950 thùng/ngày lên 1.500 thùng/ngày.

Các chính sách, chiến lược, sự phát triển công nghệ… là những yếu tố bất định, khó lường và có tác động mạnh đến sự phát triển của thị trường xe ô tô điện (EV). Theo Viện Dầu khí Việt Nam (VPI), việc theo dõi thị trường EV thông qua các chỉ dấu (signpost), xác định chỉ số EVI (Electric Vehicles Index) sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lĩnh vực EV đưa ra quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như xu hướng mua sắm tiêu dùng của các cá nhân.

Các chỉ dấu để xác định chỉ số thị trường xe ô tô điện Việt Nam. Ảnh: VPI

Để theo sát sự thay đổi của thị trường xe điện, VPI đã nghiên cứu, tham vấn ý kiến chuyên gia trong và ngoài nước để đưa ra chỉ dấu, đánh giá mức độ quan trọng của từng chỉ dấu (thông qua trọng số của các chỉ dấu); cập nhật liên tục hiện trạng các chỉ dấu của thị trường EV Việt Nam và đưa ra chỉ số EVI (Electric Vehicles Index) để đánh giá hiện trạng thị trường EV trong nước.
Theo kết quả nghiên cứu của VPI, chỉ số EVI của Việt Nam trong Quý III/2021 đạt 1,6/5 điểm (tương ứng với 32%) thông qua đánh giá các chỉ dấu gồm: chính sách, mạng lưới trạm sạc, chi phí sở hữu phương tiện (giá xe, chi phí vận hành bảo dưỡng, giá trị bán lại, thuế phí khác), thị hiếu (độ tuổi, lựa chọn thay thế), GDP/đầu người, công nghệ (tuổi thọ pin, thời gian sạc/số km di chuyển và mức độ tương thích giữa các cổng sạc của các hãng xe) và thị trường EV khu vực.
Về chính sách, Việt Nam chưa có lộ trình/mục tiêu phát triển xe điện, chưa có hệ thống các tiêu chuẩn và quy chuẩn đầy đủ để phản ánh cụ thể tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn của các bộ phận, hệ thống và các xe hoàn chỉnh. Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn tới năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) cũng chưa xét đến phụ tải là xe điện.
Tuy nhiên, Việt Nam đã có chính sách giảm chi phí sở hữu EV như: Miễn phí trước bạ với xe bus sử dụng năng lượng sạch, khuyến khích phát triển phương tiện vận tải hành khách công cộng thân thiện với môi trường; thuế tiêu thụ đặc biệt của xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện chỉ bằng 70% xe động cơ đốt trong (ICE) cùng dung tích, xe ô tô điện được áp mức thuế từ 5 – 15% tùy số chỗ của xe (trong khi đó thuế áp dụng cho xe ICE từ 10 – 150% tùy theo số chỗ và dung tích xi lanh).
Về thị trường khu vực châu Á, các quốc gia có định hướng, lộ trình phát triển EV, trong đó dẫn đầu là Trung Quốc với 22 doanh nghiệp sản xuất EV, 9 doanh nghiệp sản xuất phần mềm cho EV.
Về lựa chọn thay thế, có 47 hãng xe sản xuất ô tô điện trên thế giới, đứng đầu trong công nghệ EV là Chevrolet, Ford, Volkswagen (Porsche), Kia, Tesla, BMW, Nissan…Trong khi đó, Việt Nam có 1 mẫu xe ô tô điện VF e34 của Vinfast (ra mắt ngày 15/10/2021), 2 mẫu còn lại của Vinfast dự kiến ra mắt vào năm 2022 – 2023, còn lại là xe nhập khẩu theo đặt hàng, chưa có đại lý phân phối chính thức.
Về mạng lưới trạm sạc, VinFast có khoảng 500 trạm sạc xe điện (tính đến tháng 6/2021), đã công bố bản đồ phân bố và đang tiếp tục xây dựng 1.000 trạm sạc trong cả nước. Ngoài ra, có thêm 2 trạm sạc xe điện tại cửa hàng xăng dầu PV OIL Đà Nẵng.
Chi phí sở hữu xe điện trung bình gồm: giá mua xe, chi phí vận hành bảo dưỡng, giá trị bán lại và các loại thuế phí khác. Tại Việt Nam, tỷ lệ giá dòng xe VFe34 (690 triệu đồng) của VinFast so với các dòng xe ICE tương đương ở mức 0,7 – 0,9 khi áp dụng các chính sách hỗ trợ của Vinfast, chính sách thuê pin. Con số này tăng lên 1,2 nếu không áp dụng các chính sách trên.
Theo đánh giá của VPI, Việt Nam có tiềm năng phát triển thị trường EV trong tương lai bởi hiện tại tỷ lệ sở hữu ô tô của Việt Nam ở mức 23 ô tô/1.000 người, con số này chỉ bằng 1/10 của Thái Lan và 1/20 của Malaysia. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, các doanh nghiệp dự định tham gia chuỗi giá trị thị trường EV nên tiếp tục theo dõi, cập nhật các chỉ dấu và EVI để có cơ sở ra quyết định phù hợp.
IHS Markit dự báo đến năm 2027, chi phí sản xuất xe điện sẽ ngang bằng với chi phí sản xuất xe ICE ở Trung Quốc và châu Âu. Trong số 89 triệu xe được bán ra vào năm 2030, dự báo sẽ có 23,5 triệu xe điện (chiếm gần 27%).
Báo cáo “Năng lượng tái tạo và năng lượng mới” (Renewable & New Energy) do Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) nghiên cứu thực hiện, tập trung phân tích xu hướng chuyển dịch năng lượng, thị trường xe điện, năng lượng mặt trời, hydrogen và điện gió ngoài khơi… Thông tin chi tiết liên hệ chuyên gia Nghiêm Thị Ngoan (ngoannt@vpi.pvn.vn).

Trong Chương trình Tuần lễ Năng lượng thế giới năm 2021 với chủ đề “Kết nối các xã hội năng lượng – Năng lượng cho cuộc sống tốt đẹp hơn”, TS. Phan Ngọc Trung – Thành viên HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã trình bày tham luận “Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với định hướng sản xuất và cung ứng nguồn năng lượng hydro xanh trong tương lai”.

                                                  TS. Phan Ngọc Trung – Thành viên HĐTV PVN phát biểu tại Chương trình Tuần lễ Năng lượng thế giới năm 2021. Ảnh: PVN

Petrovietnam trong hệ thống năng lượng Việt Nam
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) tiền thân là Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được thành lập vào ngày 3/9/1975. Petrovietnam hiện tập trung vào 5 lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính là: Thăm dò – khai thác dầu khí; công nghiệp khí; công nghiệp điện; chế biến, tồn trữ và phân phối sản phẩm dầu khí; dịch vụ dầu khí, trong đó lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí là cốt lõi.
Là công ty dầu khí quốc gia (NOC) Việt Nam, chức năng, nhiệm vụ chính của Petrovietnam là quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí của đất nước. Petrovietnam có vai trò quan trọng trong hệ thống năng lượng quốc gia, đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế của đất nước, cụ thể trong việc: cung cấp nguồn năng lượng sơ cấp như dầu mỏ và khí đốt; nguồn năng lượng cuối cùng như các sản phẩm xăng dầu và điện năng; ngoài ra, Petrovietnam góp phần phát triển hạ tầng năng lượng quốc gia như các hệ thống đường ống vận chuyển, phân phối và xử lý dầu khí. Petrovietnam đang xây dựng điều chỉnh Chiến lược phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với định hướng phát triển trở thành tập đoàn năng lượng, thân thiện với môi trường trong đó lĩnh vực dầu khí tiếp tục đóng vai trò nền tảng.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 2016 – 2020 có nhiều khó khăn thách thức, biến động mạnh của giá dầu, dịch bệnh Covid-19…, tuy nhiên, Petrovietnam về cơ bản đã hoàn thành các chỉ tiêu Kế hoạch được Chính phủ phê duyệt, nổi bật là: Tổng sản lượng khai thác dầu khí 5 năm 2016 – 2020 đạt 121,14 triệu tấn dầu quy đổi, trong đó khai thác dầu đạt 71,27 triệu tấn và khai thác khí đạt 49,87 tỷ m3; sản xuất điện đạt 104,4 tỷ kWh; sản phẩm lọc dầu đạt 50,23 triệu tấn; sản xuất đạm đạt 8,28 triệu tấn; nộp ngân sách Nhà nước hàng năm chiếm tỷ trọng 9 – 11% tổng thu ngân sách của nhà nước và đóng góp cho GDP cả nước trung bình hàng năm là 10 – 13%.
Petrovietnam là một trong các trụ cột kinh tế của đất nước, thực hiện vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ, đóng góp quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Vai trò Petrovietnam trong hệ thống năng lượng Việt Nam được thể hiện rõ trong giai đoạn 2010 – 2020 đóng góp trung bình hàng năm của Petrovietnam chiếm 25 – 27% tổng nhu cầu năng lượng sơ cấp và 18 – 27% tổng nhu cầu tiêu thụ năng lượng cuối cùng của Việt Nam. Theo Chiến lược phát triển đến năm 2035, tỷ trọng đóng góp năng lượng của Petrovietnam cho đất nước sẽ tiếp tục được duy trì và phát triển, trung bình chiếm khoảng 25 – 30%.

Hydro xanh đối với hệ thống năng lượng Việt Nam

Hydro có một vai trò rất quan trọng trong chuyển dịch năng lượng để đạt được mục tiêu của Thỏa thuận chung Paris nhằm giới hạn nhiệt độ trái đất tăng dưới mức 1,5 – 2oC vào cuối thế kỷ. Hydro có các vai trò chính trong chuyển dịch năng lượng bao gồm: Sản xuất điện năng và tích hợp năng lượng tái tạo quy mô lớn; truyền tải và phân phối năng lượng giữa các khu vực, lĩnh vực sử dụng năng lượng khác nhau; lưu trữ năng lượng để nâng cao tính ổn định của hệ thống; khử carbon trong lĩnh vực giao thông vận tải; lĩnh vực sử dụng năng lượng trong công nghiệp, dân dụng; cung cấp nguyên liệu sạch cho các quá trình sản xuất công nghiệp.
Hydro có thể sử dụng để sản xuất điện năng, cấp nhiệt cho các khu công nghiệp, sử dụng làm nhiên liệu cho các phương tiện giao thông vận tải đồng thời cũng có thể sử dụng làm nguyên liệu cho các quá trình sản xuất công nghiệp chủ yếu là sản xuất NH3 và sử dụng trong các quá trình nâng cấp sản phẩm của các nhà máy lọc dầu.
Tiềm năng to lớn như trên, thế giới đang hướng tới nền kinh tế hydro trong đó hydro được sử dụng làm nhiên, nguyên liệu carbon thấp để thay thế các loại nhiên, nguyên liệu hóa thạch. Tại Việt Nam, mặc dù hiện chưa công bố tham vọng phát thải ròng bằng không và chưa xây dựng chương trình phát triển hydro. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã đặt các mục tiêu phát triển năng lượng sạch đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cụ thể như sau:
Tại Đóng góp quốc gia tự quyết định của Việt Nam năm 2020 (NDC 2020), Việt Nam đặt chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính 9% (bằng nguồn lực trong nước) và 27% (nếu có hỗ trợ quốc tế).
Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị đã đưa mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng đạt 15% vào 2030 và 20% vào 2045. Về tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo trên năng lượng sơ cấp đạt 15 – 20% vào 2030 và 25 – 30% vào 2045.
Tại Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) đề xuất tỷ trọng tổng công suất đặt nguồn điện tái tạo chiếm 26% vào 2030 và 41% vào 2045, trong đó điện gió chiếm 9% vào 2030 và 20% vào 2045.
Trong năm 2020, Việt Nam đã ban hành danh mục các công nghệ cao được ưu tiên phát triển trong đó có nguồn năng lượng hydro.
Mặc dù chi phí sản xuất hydro xanh hiện nay có giá tương đối cao (khoảng hơn 8 USD/kg) với cơ cấu giá điện tái tạo chiếm khoảng 45 – 75%, tuy nhiên theo các tổ chức dự báo quốc tế cho thấy đến 2030 giá hydro xanh có thể giảm xuống 2 USD/kg (15 USD/MMBtu) vào 2030 và 1 USD/kg (7,5 USD/MMBtu) vào 2050 chủ yếu do giá điện tái tạo và chi phí hệ thống điện phân giảm mạnh. Với giá thành như trên hydro xanh hoàn toàn có thể cạnh tranh được với các nhiên liệu truyền thống trong tương lai.
Tại Việt Nam, trong 2 năm gần đây chứng kiến sự phát triển bùng nổ của nguồn điện năng lượng tái tạo. Tính đến cuối năm 2019, Việt Nam đã đưa vào vận hành 99 MW nguồn điện gió, nhiều hơn Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ và xếp thứ 3 ngoài châu Âu. Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, Việt Nam là đất nước có tiềm năng lớn để phát triển điện gió ngoài khơi với tổng tiềm năng kỹ thuật ước đạt 162,2 GW. Dự báo cho thấy, giá điện gió ngoài khơi của Việt Nam có thể giảm xuống 5 – 7 UScent/kWh vào năm 2030 và dưới 2 – 4 UScent/kWh vào 2050, tương đương mức giá hydro xanh sản xuất từ điện gió ngoài khơi có thể giảm xuống 8 – 12 USD/kg vào 2030 và 3 – 6 USD/kg vào 2050.

Lợi thế của Petrovietnam khi phát triển hydro xanh

Với nhiều điểm tương đồng giữa chuỗi giá trị dầu khí và chuỗi giá trị của hydro, các tập đoàn dầu khí quốc gia nói chung và Petrovietnam nói riêng có nhiều cơ hội và lợi thế trong việc phát triển lĩnh vực hydro trên cơ sở những kinh nghiệm, hạ tầng sẵn có của ngành dầu khí, cụ thể:
Về sản xuất hydro, Petrovietnam đã có kinh nghiệm trong việc sản xuất hydro xám tại các đơn vị thành viên như Công ty CP Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR), Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn (NSRP), Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí – CTCP (PVFCCo) và Công ty CP Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC).
Về vận chuyển, phân phối, tàng trữ hydro, cơ sở hạ tầng sẵn có của Petrovietnam như hệ thống đường ống vận chuyển và phân phối, các kho chứa, cửa hàng kinh doanh xăng dầu… và kinh nghiệm vận hành hệ thống khí tự nhiên hoàn toàn có thể được chuyển đổi để ứng dụng cho lĩnh vực hydro.
Về sử dụng hydro, các nhà máy lọc hóa dầu cũng như các nhà máy sản xuất đạm của Petrovietnam trực tiếp sử dụng nguồn hydro xanh để thay thế từng bước nguồn hydro xám hiện nay. Ngoài ra, Petrovietnam có thể sử dụng hydro xanh để chế biến nhiên liệu tổng hợp từ các nguồn khí có hàm lượng CO2 cao hiện có tại Việt Nam.
Ngoài lợi thế tương đồng về chuỗi giá trị dầu khí với chuỗi giá trị hydro, Petrovietnam còn có lợi thế lớn trong việc phát triển các dự án điện gió ngoài khơi làm cơ sở để sản xuất hydro xanh trong tương lai. Thế mạnh này xuất phát từ đặc điểm không gian hoạt động thăm dò – khai thác dầu khí của Petrovietnam trong hơn 40 năm qua chủ yếu tập trung tại khu vực ngoài khơi, trên thềm lục địa Việt Nam. Điều này thể hiện rõ thế mạnh về cơ sở vật chất hạ tầng và năng lực tham gia phát triển các dự án điện gió ngoài khơi, cụ thể như sau:
Cơ sở vật chất, Petrovietnam đang quản lý và vận hành hệ thống gồm các cảng dịch vụ trên cả 3 miền Bắc, miền Trung và miền Nam với các nhà xưởng và trang thiết bị chế tạo trên bờ. Ngoài ra, Petrovietnam hiện đang sở hữu, quản lý đội tàu dịch vụ (gần 100 chiếc) trên biển, với sự đa dạng về công suất và chủng loại tàu.
Năng lực phát triển các dự án điện gió ngoài khơi: Petrovietnam hiện là doanh nghiệp đứng đầu Việt Nam về lĩnh vực cơ khí chế tạo, thi công, xây lắp và vận hành các công trình ngoài khơi. Nhờ vào thế mạnh về cơ sở vật chất, thiết bị và nhân lực, Petrovietnam có lợi thế để tiết kiệm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh, mang lại hiệu quả cao hơn cho các dự án điện gió ngoài khơi trong cả vai trò chủ đầu tư và nhà thầu khi tham gia cung cấp dịch vụ trong tất cả các giai đoạn phát triển của dự án, từ giai đoạn khởi động, khảo sát; đến giai đoạn thiết kế, chế tạo, lắp đặt và vận hành, bảo dưỡng các dự án/nhà máy điện gió.
Bên cạnh đó, là công ty dầu khí quốc gia (NOC) Việt Nam, với tổng tải sản hiện đạt trên 36 tỷ USD và vốn chủ sở hữu gần 20 tỷ USD, Petrovietnam có tiềm lực lớn về tài chính, đảm bảo đủ nguồn vốn khi tham gia các dự án điện gió ngoài khơi. Hơn nữa, là doanh nghiệp nhà nước hàng đầu tại Việt Nam với hệ thống hạ tầng và cơ sở dữ liệu địa chất, thủy văn ngoài khơi, Petrovietnam hoàn toàn có điều kiện và lợi thế trong việc lựa chọn, tìm kiếm các vị trí tiềm năng, có tốc độ gió cao, ổn định phù hợp cho phát triển dự án điện gió ngoài khơi hiệu quả.

Định hướng phát triển hydro xanh của Petrovietnam
Dưới tác động của chuyển dịch năng lượng và chuyển đổi số đang diễn ra trên toàn cầu, hiện Petrovietnam đang triển khai điều chỉnh Chiến lược phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó, liên quan đến việc thích ứng phát triển nguồn năng lượng sạch/mới, Petrovietnam xây dựng mục tiêu cụ thể như sau:
Mở rộng đầu tư lĩnh vực điện và năng lượng tái tạo: Đến 2030, Petrovietnam phấn đấu nâng tổng công suất lắp đặt đạt 8.000 – 14.000 MW và tỷ trọng nguồn điện tái tạo chiếm 5 – 10% tổng công suất lắp đặt của Petrovietnam. Đến 2045, Petrovietnam phấn đấu nâng công suất lắp đặt chiếm từ 8 – 10% tổng công suất hệ thống điện Việt Nam và tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo chiếm 10 – 20% trong tổng công suất nguồn điện của Petrovietnam.
Sản xuất nhiên liệu carbon thấp: Petrovietnam đặt mục tiêu sau năm 2030 sẽ triển khai sản xuất hydro xanh trên cơ sở sử dụng nguồn điện tái tạo (điện gió ngoài khơi) do Petrovietnam sản xuất.
Để đạt được các mục tiêu Chiến lược nêu trên, Petrovietnam đưa ra lộ trình, các hướng triển khai, cụ thể như sau:
Điều chỉnh Chiến lược phát triển Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, trong đó tính tới chuyển dịch năng lượng và chuyển đổi số.
Xây dựng lộ trình/chương trình phát triển năng lượng hydro xanh.
Triển khai các hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) phát triển năng lượng hydro, tập trung vào lĩnh vực: xác minh khả năng tồn tại hydro tự nhiên dưới lòng đất; sản xuất hydro xanh; vận chuyển, lưu trữ hydro; sử dụng hydro; và kinh doanh hydro.
Đẩy mạnh triển khai các dự án điện gió ngoài khơi để sản xuất hydro xanh.
Đánh giá lựa chọn địa điểm triển khai xây dựng các trung tâm (hubs) phân phối hydro, ưu tiên gần cụm công nghiệp dầu khí tại Vũng Tàu, Dung Quất và Cà Mau.
Nghiên cứu từng bước thay thế sử dụng hydro xanh làm nguyên liệu, nhiên liệu cho các nhà máy lọc hóa dầu, nhà máy phân đạm, chuyển đổi nhiên liệu nhà máy điện khí/than của Petrovietnam sang sử dụng hydro xanh.
Nghiên cứu phát triển các dự sản xuất hóa chất, nhiên liệu tổng hợp từ ydro xanh và nguồn CO2 thu được từ các nhà máy và mỏ khí có hàm lượng CO2 cao.
Đánh giá tiềm năng xuất khẩu hydro sang các nước, ưu tiên thị trường trong khu vực và các nước Đông Bắc Á.

Vai trò của hydro ngày càng quan trọng trong cơ cấu năng lượng toàn cầu và là giải pháp không thể thiếu trong chuyển dịch năng lượng và cắt giảm phát thải khí nhà kính trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Là công ty dầu khí quốc gia của Việt Nam đã có đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là 1 trong những trụ cột trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, bên cạnh chịu sự tác động trực tiếp của sự chuyển dịch năng lượng/biến đổi khí hậu, Petrovietnam có trách nhiệm trong việc chung tay cùng Chính phủ vừa đảm bảo an ninh năng lượng, vừa giảm phát thải khí nhà kính để bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Với lợi thế hình thành chuỗi dầu khí hoàn chỉnh từ thăm dò khai thác, xử lý, vận chuyển, chế biến, tồn trữ và phân phối các sản phẩm dầu khí sau hơn 40 năm phát triển, Petrovietnam xác định phát triển sản xuất hydro xanh từ nguồn năng lượng tái tạo (điện gió ngoài khơi) là định hướng chiến lược phát triển nguồn năng lượng sạch/mới trong tương lai nhằm cung cấp nguồn năng lượng sạch bền vững cho đất nước trên cơ sở phát huy thế mạnh của hoạt động dầu khí ngoài khơi của Petrovietnam.

Ngày 17/4/2021, tại TP. Hồ Chí Minh, Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) và Tổng công ty Dầu Việt Nam – CTCP (PVOIL) đã ký “Hợp đồng khung dịch vụ tư vấn nghiên cứu về pin và trạm sạc cho xe ôtô điện”.

Tổng giám đốc PVOIL Đoàn Văn Nhuộm và Viện trưởng VPI Nguyễn Anh Đức ký “Hợp đồng dịch vụ tư vấn nghiên cứu về pin và trạm sạc cho xe ôtô điện”. Ảnh: Mai Phương

Theo đó, VPI sẽ đánh giá tác động của xu hướng chuyển dịch năng lượng đến thị trường xăng dầu Việt Nam; nhận định thách thức và cơ hội dưới tác động của xu hướng chuyển dịch năng lượng, xu hướng phát triển pin xe điện và trạm sạc cho xe ô tô trên thế giới, khu vực và Việt Nam. Trên cơ sở đó, VPI đề xuất các giải pháp để PVOIL phát triển ổn định và bền vững trong bối cảnh diễn ra xu hướng chuyển dịch năng lượng.
Viện trưởng VPI Nguyễn Anh Đức cho biết, theo khảo sát của Frost & Sullivan (Mỹ) có 33% người tiêu dùng ở Việt Nam quan tâm đến việc mua xe điện, vấn đề còn lại là giá, công nghệ sạc, giá pin và tuổi thọ của pin. Với vai trò và sứ mệnh của đơn vị nghiên cứu khoa học của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, VPI sẽ theo dõi các chỉ dấu của thị trường, thường xuyên cập nhật để lãnh đạo PVOIL có cơ sở đưa ra quyết định chính xác, chuẩn bị sẵn sàng các giải pháp ứng phó rủi ro và tận dụng cơ hội trong xu hướng chuyển dịch năng lượng.
Chủ tịch HĐQT PVOIL Cao Hoài Dương cho biết, trong xu hướng chuyển dịch năng lượng, PVOIL là đơn vị bị ảnh hưởng trực tiếp nên luôn có ý thức chủ động ứng phó “giảm thiểu nguy và tận dụng cơ”. Cách đây 3 năm, PVOIL đã quan tâm nghiên cứu sự phát triển xe điện, khả năng thay thế của xe điện cho xe chạy bằng xăng dầu và xây dựng các kịch bản có thể xảy ra. PVOIL mong rằng, qua sự hợp tác với VPI, các chuyên gia sẽ hỗ trợ PVOIL trong nghiên cứu công nghệ, kỹ thuật, xu hướng phát triển của pin và trạm sạc để PVOIL có thêm thông tin trong công tác hoạch định chiến lược phát triển, sẵn sàng thích ứng với xu hướng phát triển của xe điện.
Với vai trò là doanh nghiệp kinh doanh phân phối sản phẩm dầu, sự chuyển dịch năng lượng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của PVOIL. Do đó, PVOIL cần tận dụng lợi thế cơ sở hạ tầng sẵn có của hệ thống hơn 600 cửa hàng xăng dầu trên khắp cả nước, ứng dụng công nghệ 4.0 vào hoạt động kinh doanh để có các phương án, giải pháp đón đầu xu thế phát triển của xe ôtô điện.

Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Hoàng Quốc Vượng cho rằng việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2021 có ý nghĩa quan trọng, tạo niềm tin, khí thế cho toàn Tập đoàn khi bước vào giai đoạn phát triển mới.

Thực hiện kế hoạch 2021, bên cạnh những cơ hội là thách thức lớn: Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động của Tập đoàn (thị trường dầu khí, sản xuất, kinh doanh và công tác đầu tư của Tập đoàn). Xu thế chuyển dịch năng lượng từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, tác động trực tiếp và tiêu cực tới hoạt động dầu khí. Giá dầu khí mặc dù đã tăng lên trong những ngày vừa qua nhưng khó có thể tăng cao trong năm 2021. Tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí của Tập đoàn. Việc điều chỉnh khuôn khổ pháp lý cho hoạt động dầu khí (Luật Dầu khí, quy chế tài chính…) cho phù hợp với thực tiễn ngành Dầu khí Việt Nam hiện nay cần nhiều thời gian.

Bên cạnh những khó khăn mang tính vĩ mô trên, những khó khăn nội tại của Tập đoàn cũng không hề nhỏ: Giá dầu giảm sâu dẫn đến nguồn thu của Tập đoàn suy giảm mạnh (lợi nhuận hợp nhất năm 2020 giảm trên 63% so với năm 2019), ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lực của Tập đoàn để thực hiện các mục tiêu, kế hoạch trung hạn, dài hạn và chiến lược phát triển của Tập đoàn trong những năm tới. Các khó khăn, vướng mắc tại các dự án đầu tư lớn của Tập đoàn như: Thái Bình 2, Long Phú 1, các dự án ethanol… vẫn chưa được giải quyết căn bản, tiếp tục tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động của Tập đoàn. Việc thực hiện các cam kết chính phủ cho các dự án dầu khí trọng điểm tiếp tục tạo áp lực cho hoạt động cũng như tình hình tài chính của Tập đoàn.

Kế thừa những kết quả quan trọng, toàn diện đã đạt được trong năm 2020, phát huy tinh thần đoàn kết, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ để nỗ lực phấn đấu hoàn thành vượt mức các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch năm 2021, toàn Tập đoàn cần thể hiện tinh thần, khát vọng phát triển “chủ động, tích cực hơn, năng động, sáng tạo hơn, đạt được kết quả tổng thể cao trong năm 2021” với phương châm hành động “Bản lĩnh, trách nhiệm, đoàn kết, đổi mới”; triển khai ngay các nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2021.

Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam yêu cầu tiếp tục rà soát chiến lược phát triển đơn vị trong 10 năm tới, kế hoạch phát triển 5 năm có tính tới tác động sâu rộng của xu hướng chuyển dịch năng lượng; tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 để có định hướng lớn trong sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn, của đơn vị. Quan tâm hơn nữa tới công tác dự báo thị trường, các vấn đề kinh tế – chính trị trong năm 2021 để đưa ra các kịch bản ứng phó và có phương hướng quản trị phù hợp; nghiên cứu và tìm kiếm các cơ hội đầu tư mới, các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới, sản phẩm mới phù hợp với năng lực, tiềm năng, thế mạnh của Tập đoàn.

Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam yêu cầu tạo dựng mối liên kết hiệu quả giữa các đơn vị trong chuỗi giá trị để phát huy các nguồn lực trong Tập đoàn, nhằm phát huy nội lực, nâng cao khả năng cạnh tranh. Tiếp tục thực hiện tái cấu trúc các đơn vị hướng tới mục tiêu giảm giá thành sản phẩm, phản ứng nhanh, kịp thời với những biến động của thị trường; nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; đảm bảo lợi ích của người lao động. Nâng cao chất lượng quản lý, quản trị doanh nghiệp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, đổi mới, sáng tạo (vốn một thời là giá trị văn hóa của người dầu khí), tất cả vì sự phát triển của đơn vị, của Tập đoàn. Ưu tiên nguồn lực để giải quyết các khó khăn, vướng mắc tại các dự án đầu tư của Tập đoàn; nâng cao năng lực đầu tư xây dựng, đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư xây dựng của Tập đoàn: các dự án điện, các dự án dầu khí trọng điểm…