Nhân kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10), dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Thường trực Chính phủ đã tổ chức chương trình gặp mặt đại diện doanh nhân Việt Nam. Vinh dự tham gia sự kiện này, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Lê Mạnh Hùng đã báo cáo với Thường trực Chính phủ về nỗ lực vượt qua thách thức của Petrovietnam trong thời gian qua, đặc biệt là kết quả triển khai 2 nhóm giải pháp chính: “Tái tạo văn hóa Petrovietnam” và “Đổi mới công tác quản trị, nâng cao hiệu quả và dịch chuyển mô hình kinh doanh”.

Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Lê Mạnh Hùng báo cáo với Thường trực Chính phủ về nỗ lực vượt qua thách thức của Petrovietnam

Ngay sau khi nước nhà độc lập, ngày 13/10/1945, Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã gửi thư cho giới Công Thương, sau này trở thành Ngày Doanh nhân Việt Nam; đây thể hiện sự thấu hiểu của Bác đối với nỗi khó khăn, vất vả và ghi nhận vai trò của doanh nhân cũng như giới kinh thương Việt Nam. Hôm nay, Thủ tướng Chính phủ, Thường trực Chính phủ trong bộn bề công việc của mình cũng dành thời gian gặp gỡ, động viên doanh nhân Việt Nam. Đây cũng là một động lực to lớn để doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần vượt qua muôn vàn khó khăn để tồn tại và phát triển, đóng góp lớn cho quốc gia, dân tộc.
Có thể nói, trong sự nghiệt ngã, khốc liệt của thương trường, doanh nghiệp muốn phát triển, trường tồn, sau khi sinh ra, trưởng thành phải liên tục cải tiến, đổi mới; tái cấu trúc theo chu kỳ, thậm chí tái tạo và tái lập. Petrovietnam cũng vậy, ra đời từ Đoàn thăm dò dầu lửa 36 ngày 27/11/1961, nay đã 62 năm truyền thống, trong thời gian ấy, Petrovietnam đã phát triển và trưởng thành, có đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, có giai đoạn do sự phát triển nóng, xa rời cốt lõi và bị tổn thương văn hóa cùng với tác động từ môi trường kinh doanh như giá dầu giảm sâu, phạm vi hoạt động… đã dẫn đến khó khăn, khủng hoảng kéo dài. Năm 2017, Petrovietnam đã từng báo cáo Thủ tướng Chính phủ bức tranh tài chính, dự báo đến năm 2019, Petrovietnam sẽ bị mất cân đối dòng tiền, lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, cùng với sự quan tâm, chỉ đạo, chấn chỉnh và giúp đỡ của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đặc biệt là công tác cán bộ, Petrovietnam đã thực hiện công cuộc cải tổ toàn diện. Tôi xin được chia sẻ 2 nhóm giải pháp chính:
Việc ưu tiên, tập trung thực hiện trước hết đó là “Tái tạo Văn hóa Petrovietnam”. Với mục tiêu tái tạo văn hóa để củng cố và tạo đà cho tái tạo kinh doanh. Ngày 27/11/2019, Petrovietnam chính thức phê duyệt Đề án Tái tạo Văn hóa Petrovietnam, trên cơ sở tư tưởng cốt lõi bao gồm: Mục đích cốt lõi và Hệ giá trị cốt lõi, tiến hành sàng lọc, loại bỏ văn hóa xấu độc; cập nhật, bổ sung văn hóa tiến bộ, hiện đại cùng các giải pháp đồng bộ, cụ thể như hình thành 7 thói quen hiệu quả,… Sau hơn 4 năm kiên trì tổ chức thực hiện, đến nay cơ bản đã củng cố và phát triển Văn hóa nền tảng và Văn hóa bản sắc của Petrovietnam gắn với hệ giá trị cốt lõi là “Khát vọng – Trí tuệ – Chuyên nghiệp – Nghĩa tình”, lấy lại được niềm tin của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của người lao động và xã hội, góp phần đưa Giá trị thương hiệu Petrovietnam đạt gần 1,4 tỷ USD (tăng 3 lần so với năm 2019).
Việc thứ hai là: Đổi mới công tác quản trị, nâng cao hiệu quả và dịch chuyển mô hình kinh doanh. Trên cơ sở định hướng của Đảng, Nhà nước; mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đất nước, thực tiễn hoạt động, các xu hướng lớn, Petrovietnam đã cập nhật chiến lược và hoàn chỉnh đồng bộ Đề án tái cấu trúc; điều chỉnh mô hình quản trị tinh gọn, giảm trung gian; phân công, phân cấp, phân quyền theo hướng cấp nào nắm việc rõ nhất thì cấp đó chịu trách nhiệm ra quyết định quản trị; Tổ hợp, chuẩn mực hóa Hệ thống quy chế quản trị giảm xuống còn 140 quy chế, chia làm 6 Bộ theo lĩnh vực, được số hóa toàn bộ, từng bước tối ưu, cập nhật trên cơ sở ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Xây dựng và đưa vào thực tiễn Bộ giải pháp và quản trị biến động để ứng phó với những thay đổi nhanh; triển khai đồng bộ Quản trị danh mục đầu tư tài chính và danh mục đầu tư phát triển theo Mô hình Công ty mẹ Holding kết hợp điều hành; tổ chức, hình thành các chuỗi liên kết trong Hệ sinh thái Petrovietnam, đến nay đã đưa 24 chuỗi giá trị, chuỗi liên kết vào hoạt động, phát huy hiệu quả rất tích cực…
Kết quả của việc thực hiện các nhóm giải pháp trên, mô hình kinh doanh của Petrovietnam đã được dịch chuyển theo hướng bền vững hơn, cơ cấu doanh thu, lợi nhuận giữa các lĩnh vực ổn định, tăng trưởng, không còn chỉ dựa vào lĩnh vực khai thác dầu khí nữa. Kết quả sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng trung bình so với giai đoạn 2016-2020; từ năm 2021 đến tháng 6/2023, tổng doanh thu đạt 2.117 nghìn tỷ đồng, tăng 30%; nộp ngân sách nhà nước đạt 349,12 nghìn tỷ đồng, tăng 40%; lợi nhuận đạt 152,6 nghìn tỷ đồng, tăng 60%; tiết giảm chi phí đạt 13.792 tỷ đồng; đặc biệt là thu nhập người lao động tăng 18,2%. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn năm 2020 (khi giá dầu -37,63USD), Petrovietnam là một trong số ít công ty dầu khí trên thế giới đã vượt qua và có lợi nhuận gần 20.000 tỷ đồng; năm 2021 đã phục hồi so với trước đại dịch Covid-19; năm 2022 đạt nhiều kỷ lục, hoàn thành nhiều công trình lớn, đạt nhiều giải thưởng KHCN; năm 2023 sau 9 tháng hoạt động, tổng doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 655 nghìn tỷ đồng, vượt 30% kế hoạch 9 tháng, hoàn thành 97% kế hoạch năm; Nộp ngân sách toàn Tập đoàn ước đạt 105,4 nghìn tỷ đồng, vượt 35% kế hoạch năm 2023; Lợi nhuận trước thuế hợp nhất Tập đoàn vượt 17% kế hoạch năm.
Để đạt được kết quả nêu trên, ngoài những nỗ lực, cố gắng của 6 vạn cán bộ, đảng viên, người lao động, Petrovietnam còn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đặc biệt là của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Ban, Bộ, ngành Trung ương, sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam.
Thời gian tới, với mục tiêu trở thành Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia, giữ vai trò trụ cột trong bảo đảm an ninh năng lượng và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước những khó khăn lớn như xu hướng dịch chuyển năng lượng, địa chính trị phức tạp, biến động của thị trường,… Petrovietnam mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo và hỗ trợ của Đảng, Chính phủ, các Bộ, Ban, ngành Trung ương và địa phương để giữ đà phát triển bền vững, đạt được những thành công và thắng lợi mới, tiếp tục đóng góp xứng đáng cho sự phát triển của đất nước với vai trò là một tập đoàn công nghiệp năng lượng hàng đầu quốc gia.

Trong 7 tháng đầu năm 2023, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) đã xuất sắc hoàn thành vượt mức kế hoạch cả năm 2023 ở chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước, về đích trước kế hoạch 5 tháng.

Giàn khai thác mỏ Sư Tử Trắng

Tình hình quốc tế, khu vực và trong nước 7 tháng đầu năm nay đều cho thấy khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội và xấu hơn rất nhiều so với những dự báo đưa ra từ đầu năm. Tăng trưởng toàn cầu thấp; cầu tiêu dùng yếu; hàng rào bảo hộ gia tăng; thị trường tài chính có nhiều biến động, chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng ở nhiều quốc gia; xuất hiện những thách thức mới về an ninh lương thực toàn cầu; gián đoạn chuỗi cung ứng, gián đoạn kinh tế; thị trường năng lượng nhiều biến động, giá và sức cầu đều diễn biến tiêu cực do sức ép từ tăng trưởng kinh tế toàn cầu yếu kém. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho nền kinh tế, giữ vững mục tiêu tăng trưởng của năm 2023.

Là tập đoàn kinh tế, năng lượng hàng đầu của đất nước, Petrovietnam tập trung hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh được Chính phủ giao, đóng góp tích cực cho nền kinh tế, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp quản trị điều hành theo phương châm “Quản trị biến động, Mở rộng quy mô, Tăng tốc chuyển đổi số, Dịch chuyển mô hình, Nâng cao năng suất, Tái tạo kinh doanh”, Petrovietnam đã đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh an toàn, ổn định, hiệu quả cao. Các chỉ tiêu sản xuất trong 7 tháng đầu năm đều vượt kế hoạch và ở mức cao, cung cấp cho thị trường các sản phẩm chiến lược: khí, điện, đạm, xăng dầu…

Đặc biệt, Petrovietnam hoàn thành vượt mức cao các chỉ tiêu tài chính, trong đó chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước tháng 7/2023 đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, vượt hơn 2 lần so với kế hoạch tháng. Lũy kế 7 tháng đầu năm 2023, Petrovietnam đã nộp ngân sách Nhà nước 78,31 nghìn tỷ đồng, vượt 62% kế hoạch 7 tháng và đạt 100,02% kế hoạch năm 2023, về đích trước kế hoạch năm 5 tháng.

Ngày 12/7/2023, Hội đồng Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia đã họp đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia “Nghiên cứu, ứng dụng thử nghiệm công nghiệp và đánh giá hiệu quả thực tế giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu cho một đối tượng đại diện thuộc tầng trầm tích lục nguyên của bể Cửu Long”, mã số ĐTĐL.CN-28/19 do TS. Nguyễn Minh Quý làm chủ nhiệm, Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) chủ trì thực hiện.

Hội đồng Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia đã họp đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia “Nghiên cứu, ứng dụng thử nghiệm công nghiệp và đánh giá hiệu quả thực tế giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu cho một đối tượng đại diện thuộc tầng trầm tích lục nguyên của bể Cửu Long”.

Nhóm tác giả đã nghiên cứu khảo sát hiện trạng công trình biển tại khu vực thử nghiệm; thiết kế và cải hoán hệ thống thiết bị đáp ứng yêu cầu phục vụ thử nghiệm. Hệ thống thiết bị được thực hiện chạy thử, nghiệm thu đáp ứng các tiêu chí an toàn , chất lượng và tương thích với hệ thống sẵn có với các thông số: Áp suất làm việc tới 500 atm; công suất làm việc lên tới 5.024 thùng/ngày; không tương tác với hóa phẩm, nước bơm ép và chịu được ăn mòn.
VPI đã phối hợp với Liên doanh Việt – Nga “Vietsovpetro” thực hiện bơm ép toàn bộ 100 tấn hóa phẩm VPI SP vào giếng 1609/BK16 an toàn và hiệu quả, sau đó giếng được đưa trở lại làm việc và duy trì chế độ làm việc ban đầu; xây dựng kế hoạch, theo dõi chỉ số làm việc giếng, lấy mẫu chất lưu tại khu vực thử nghiệm định kỳ và thực hiện phân tích nhằm đánh giá tính chất và hiệu quả tương tác của hóa phẩm giúp tăng cường thu hồi dầu…
Hội đồng nghiệm thu đánh giá rất cao các kết quả đã đạt được của Đề tài, đặc biệt là kết quả thử nghiệm công nghiệp hóa phẩm nâng cao hệ số thu hồi dầu VPI SP tại giếng 1609/BK16 mỏ Bạch Hổ. Kết quả tính toán sơ bộ sau 6 tháng kể từ khi sử dụng hoá phẩm VPI SP cho thấy giải pháp này mang lại hiệu quả tích cực.
Động thái khai thác các giếng trong khu vực thử nghiệm cho thấy hệ hóa phẩm vẫn đang tiếp tục có hiệu ứng tích cực, giúp gia tăng thu hồi dầu trong thời gian tới (dự kiến sẽ kéo dài trong 2 năm). Nhóm nghiên cứu của VPI đã xây dựng phương án công nghệ, đánh giá hiệu quả kinh tế khi áp dụng hệ hóa phẩm VPI SP cho đối tượng Miocene trên phạm vi toàn mỏ Bạch Hổ, đồng thời đề xuất cơ chế ưu đãi khuyến khích áp dụng các giải pháp IOR/EOR, xem xét áp dụng công nghệ bơm ép hóa phẩm VPI SP với quy mô lớn (toàn mỏ) hoặc các khu vực, đối tượng tiềm năng nhằm gia tăng hệ số thu hồi dầu.
Theo ý kiến của các chuyên gia, có thể mở rộng phạm vi ứng dụng giải pháp công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu bằng hóa phẩm VPI SP do VPI nghiên cứu và phát triểncho các đối tượng khai thác trong mỏ Bạch Hổ cũng như các mỏ dầu khí đang khai thác tại bể Cửu Long, thềm lục địa Việt Nam. Nghiên cứu này càng có ý nghĩa khi các mỏ dầu ngoài khơi có điều kiện nhiệt độ và áp suất vỉa cao, tính chất phức tạp về cấu trúc địa chất, mức độ bất đồng nhất của vỉa chứa, hàm lượng khoáng hóa trong nước vỉa cao… trong khi các sản phẩm nâng cao hệ số thu hồi dầu trên thế giới chưa đáp ứng được yêu cầu hoặc số ít sản phẩm có thể sử dụng được nhưng lại có giá thành cao.
Kết luận cuộc họp, Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. Trần Đình Kiên cho biết Hội đồng đánh giá cao các kết quả nghiên cứu. Đây là đề tài mang tính ứng dụng và thực tiễn cao, Hội đồng kiến nghị VPI tiếp tục phát huy, hoàn thiện kết quả thương mại hóa công nghệ sản phẩm và nhất trí nghiệm thu đề tài đạt các yêu cầu đề ra.
Viện trưởng VPI Nguyễn Anh Đức đại diện đơn vị chủ trì cảm ơn các ý kiến góp ý của Hội đồng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Liên doanh Việt – Nga “Vietsovpetro” đã tạo điều kiện và hỗ trợ cho nhóm tác giả trong quá trình triển khai nghiên cứu này. Đây là nghiên cứu đầu tiên VPI thực hiện theo 1 chu trình khép kín từ phòng thí nghiệm, sản xuất hóa phẩm ở quy mô pilot và ứng dụng thử nghiệm thực tế, với mục tiêu thu được tài nguyên của đất nước hiệu quả hơn trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng. Dựa trên kết quả đã thu được, VPI và Vietsovpetro đang tích cực trao đổi và nghiên cứu nhằm mở rộng quy mô áp dụng cho đối tượng Miocene toàn mỏ Bạch Hổ và đối tượng tiềm năng khác.

“Nghiên cứu, ứng dụng thử nghiệm công nghiệp và đánh giá hiệu quả thực tế giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu cho một đối tượng đại diện thuộc tầng trầm tích lục nguyên của bể Cửu Long” là đề tài thứ 3 trong Cụm nhiệm vụ cấp Quốc gia Bộ Khoa học và Công nghệ giao cho VPI chủ trì thực hiện. Kết quả nghiên cứu từ đề tài này đã giúp VPI giành giải Nhất Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ Việt Nam (VIFOTEC) năm 2022 với cụm công trình “Nghiên cứu, lựa chọn giải pháp và phát triển, ứng dụng công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu cho đối tượng trầm tích lục nguyên của các mỏ dầu tại bể Cửu Long, thềm lục địa Việt Nam”.

Ngày 31/5/2023, Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ Việt Nam (VIFOTEC), giải thưởng WIPO năm 2022. Ban Tổ chức đã trao giải Nhất và Biểu trưng vàng sáng tạo cho Cụm công trình “Nghiên cứu, lựa chọn giải pháp và phát triển, ứng dụng công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu cho đối tượng trầm tích lục nguyên của các mỏ dầu tại bể Cửu Long, thềm lục địa Việt Nam” do Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) chủ trì thực hiện. VPI đã cùng với Liên doanh Việt – Nga “Vietsovpetro” tiến hành thử nghiệm công nghiệp quy mô nhỏ hóa phẩm nâng cao hệ số thu hồi dầu (VPI SP) vào khu vực thử nghiệm tại mỏ Bạch Hổ, giúp gia tăng sản lượng khai thác.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Quý – Phó Viện trưởng VPI, ThS. Phạm Trường Giang và ThS. Hoàng Long đại diện nhóm tác giả nhận Bằng khen của Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Biểu trưng vàng sáng tạo cho Cụm công trình.

Trong bối cảnh sản lượng khai thác dầu khí trong nước có xu hướng suy giảm (do một số mỏ lớn đang ở giai đoạn khai thác cuối đời mỏ, các mỏ mới phát hiện chủ yếu là mỏ nhỏ, cận biên, điều kiện khai thác khó khăn…), việc triển khai các nghiên cứu thử nghiệm và áp dụng công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu (EOR) trở thành vấn đề cấp thiết.
Trên thực tế, việc áp dụng các công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu luôn tiềm ẩn rủi ro về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế do ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: thông tin địa chất, đặc trưng vỉa chứa, công nghệ mỏ, công nghệ khai thác, cơ sở hạ tầng của khu vực, giá dầu, chi phí…
Vì vậy, VPI đã tập trung nguồn lực để nghiên cứu và đánh giá các thông số vỉa chứa cho từng đối tượng áp dụng công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu từ địa chất – địa vật lý đến công nghệ mỏ, thiết bị lòng giếng, công nghệ khai thác và hệ thống thu gom, xử lý khu vực thử nghiệm… Bên cạnh đó, tính toán hiệu quả kinh tế cũng được VPI đánh giá chi tiết để có thể lựa chọn được giải pháp công nghệ có tính khả thi, phù hợp với từng đối tượng, từng mỏ đang khai thác.
Đối với bể Cửu Long, VPI đã nghiên cứu xây dựng phương án tổng thể các giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu cho trầm tích lục nguyên trên phạm vi toàn bể, đồng thời nghiên cứu chế tạo các tác nhân hóa, khí để đáp ứng các điều kiện công nghệ kỹ thuật của các mỏ thuộc đối tượng trầm tích bể Cửu Long.
Theo kết quả tính toán sơ bộ, trong trường hợp các biện pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu được áp dụng tổng thể có thể nâng cao hệ số thu hồi từ 1,5 – 2%, tổng sản lượng dầu gia tăng có thể đạt từ 50 – 150 triệu thùng, giúp tối ưu khai thác tài nguyên và có đóng góp lớn về hiệu quả kinh tế.
VPI cho biết đã được Bộ Khoa học và Công nghệ giao chủ trì thực hiện cụm nhiệm vụ cấp Quốc gia gồm 3 đề tài: “Nghiên cứu lựa chọn các giải pháp công nghệ và thực nghiệm đánh giá các tác nhân nâng cao hệ số thu hồi dầu cho đối tượng trầm tích lục nguyên của các mỏ dầu thuộc bể Cửu Long”; “Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của các giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu và chế tạo hệ hóa phẩm quy mô pilot áp dụng cho đối tượng đại diện thuộc tầng trầm tích lục nguyên của bể Cửu Long”; “Nghiên cứu, ứng dụng thử nghiệm công nghiệp và đánh giá hiệu quả thực tế giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu cho một đối tượng đại diện thuộc tầng trầm tích lục nguyên của bể Cửu Long”.
Kết quả nhóm tác giả đã xây dựng được phần mềm đánh giá lựa chọn các giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu (VPI EOR Screening) phù hợp cho mỏ, đối tượng khai thác dầu tại Việt Nam. Đây là phần mềm đầu tiên của Việt Nam trong lĩnh vực nâng cao hệ số thu hồi dầu giúp sàng lọc giải pháp phục vụ nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Bên cạnh đó, VPI đã nghiên cứu xây dựng được mô hình mô phỏng địa chất và khai thác cho đối tượng áp dụng giải pháp công nghệ nâng cao thu hồi dầu; ứng dụng công nghệ 4.0 trong quá trình mô phỏng khai thác mỏ, mô phỏng cơ chế của các giải pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu (như mô phỏng tích hợp, mô phỏng đa thành phần, mô phỏng đường dòng… trong mô phỏng khai thác).
Nhóm tác giả đã nghiên cứu, tối ưu hệ hóa phẩm nâng cao hệ số thu hồi dầu trong phòng thí nghiệm, phù hợp với các đặc điểm phức tạp về địa chất và khai thác dầu khí, an toàn với môi trường biển tại Việt Nam và giảm phát thải carbon. Trên cơ sở đó, VPI đã thiết kế và chế tạo thành công hệ thống thiết bị và sản xuất 100 tấn hóa phẩm nâng cao hệ số thu hồi dầu VPI SP quy mô 4 tấn/ngày để phục vụ thử nghiệm công nghiệp và đánh giá hiệu quả thực tế, là tiền đề cho việc ứng dụng tổng thể trên phạm vi toàn mỏ Bạch Hổ.
Điểm nhấn quan trọng nhất của cụm công trình nghiên cứu này là VPI đã cùng với Liên doanh Việt – Nga “Vietsovpetro” tiến hành bơm ép thử nghiệm hóa phẩm VPI SP vào khu vực thử nghiệm tại mỏ Bạch Hổ, giúp gia tăng sản lượng khai thác. Kết quả thử nghiệm công nghiệp tại mỏ (tầng chứa Miocen dưới, mỏ Bạch Hổ) cho hiệu quả rất tốt, vượt mục tiêu đặt ra ban đầu, với tổng sản lượng khai thác dầu gia tăng sau 6 tháng đạt 2,7 nghìn tấn dầu.
Nghiên cứu này càng có ý nghĩa khi các mỏ dầu ngoài khơi có điều kiện nhiệt độ và áp suất vỉa cao, tính chất phức tạp về cấu trúc địa chất, mức độ bất đồng nhất của vỉa chứa, hàm lượng khoáng hóa trong nước vỉa cao… trong khi các sản phẩm nâng cao hệ số thu hồi dầu trên thế giới chưa đáp ứng được yêu cầu hoặc số ít sản phẩm có thể sử dụng được nhưng lại có giá thành cao.
Kết quả thử nghiệm công nghiệp thành công tại mỏ Bạch Hổ là tiền đề để VPI tiến tới sản xuất hóa phẩm nâng cao hệ số thu hồi dầu VPI SP ở quy mô công nghiệp, đồng thời mở rộng khả năng ứng dụng hóa phẩm này cho các mỏ dầu khí khác trên thế giới có điều kiện địa chất, công nghệ mỏ và khai thác tương đồng.

Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) cho biết Hội nghị quốc tế lần thứ V với chủ đề “Địa kỹ thuật vì sự phát triển hạ tầng bền vững” (The 5th International Conference on Geotechnics for Sustainable Infrastructure Development – GEOTEC HANOI 2023) sẽ diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia từ ngày 14 – 15/12/2023.  

GEOTEC HANOI 2023 được tổ chức bởi FECON và các đơn vị đồng tổ chức gồm: Viện Dầu khí Việt Nam (VPI), Hội Địa kỹ thuật Nhật Bản (JGS), Hội Cơ học đất và Địa kỹ thuật Công trình Việt Nam (VSSMGE), Trường Đại học Thủy lợi (TLU). Hội nghị sẽ tập trung thảo luận 6 chủ đề trọng tâm: Móng sâu, Hầm và công trình ngầm, Gia cố nền đất, Mô hình số và quan trắc địa kỹ thuật, Sạt lở và xói mòn, và Năng lượng gió ngoài khơi và địa kỹ thuật bờ biển.

Với thông điệp “Địa kỹ thuật vì sự phát triển hạ tầng bền vững”, GEOTEC HANOI 2023 là diễn đàn cập nhật các kết quả nghiên cứu mới nhất, trao đổi, chia sẻ các giải pháp và công nghệ mới về địa kỹ thuật để từ đó nâng cao chất lượng các công trình, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.

TS. Phạm Quý Ngọc – chuyên gia của VPI cho biết, “Năng lượng gió ngoài khơi và địa kỹ thuật đới ven bờ” là chủ đề mới của GEOTEC HANOI 2023 và cũng là chủ đề đang được các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng, dầu khí quan tâm. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank), với bờ biển dài hơn 3.000 km, Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng gió, đặc biệt là năng lượng ngoài khơi. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều dự án phát triển năng lượng gió trên bờ, gần bờ đồng thời khởi động các dự án điện gió ngoài khơi. Công nghệ khảo sát, xử lý số liệu địa kỹ thuật, địa vật lý, thiết kế móng cho công trình điện gió ngoài khơi và đới ven bờ sẽ được các chuyên gia địa kỹ thuật, địa vật lý và các nhà chuyên môn quan tâm, thảo luận, chia sẻ trong Hội nghị này.

Ngành dầu khí Việt Nam có thuận lợi khi phát triển điện gió ngoài khơi nhờ tiềm lực tài chính tốt, khả năng thu xếp vốn thuận lợi với hệ số tín nhiệm cao và có khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính xanh, vốn vay lãi suất thấp cũng như các ưu đãi khác của Chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế ủng hộ phát triển năng lượng xanh, sạch. Ngoài ra, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) và các đơn vị thành viên có thể phát huy lợi thế về kinh nghiệm và nguồn nhân lực sẵn có trong thiết kế, chế tạo, vận hành công trình biển để tham gia vào chuỗi cung ứng và phát triển các dự án điện gió ngoài khơi.

Theo Ban Tổ chức, GEOTEC HANOI 2023 đến nay đã nhận được trên 290 bài của hơn 800 tác giả và nhóm tác giả đến từ 41 quốc gia trên thế giới. Trong đó, có nhiều chuyên gia, nhà khoa học nổi tiếng của Mỹ, Vương quốc Anh, Đức, Na Uy, Nhật Bản, Hà Lan, Hàn Quốc… Thông tin chi tiết vui lòng tham khảo: https://geotechn.vn/.

 

 

Ngày 27/2/2023, Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) đã trao tặng phần thưởng cho 5 giải Nhất trong chương trình đào tạo với chủ đề “Thanh niên VPI tiên phong trong sáng tạo sản phẩm dữ liệu”.

VPI đã trao tặng 5 máy tính Macbook Air M1 tại vị trí làm việc cho 5 đoàn viên có sản phẩm dữ liệu đạt giải Nhất trong chương trình đào tạo của VPI với chủ đề “Thanh niên VPI tiên phong trong sáng tạo sản phẩm dữ liệu”. Chương trình đào tạo kéo dài hơn 2 tháng đã cung cấp kiến thức về xu hướng phát triển của thị trường phân tích dữ liệu, các nguồn và cấu trúc dữ liệu, các phương pháp và kỹ thuật phân tích dữ liệu; từ đó ứng dụng vào các công việc đang triển khai, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn và lan tỏa nét văn hóa “Tự học hỏi, tự hoàn thiện bản thân”.

Đại diện Ban tổ chức chương trình đào tạo trao phần thưởng 3 đoàn viên đạt giải Nhất tại khu vực Hà Nội gồm Trần Xuân Quý, Nguyễn Thị Thanh, Trần Đăng Tú (từ trái sang phải) 

Đại diện Ban tổ chức chương trình đào tạo trao phần thưởng cho 2 đoàn viên đạt giải Nhất tại tp. Hồ Chí Minh gồm Trương Văn Nhân, Nguyễn Thị Thanh Ngà (từ trái sang phải) 

Các ý tưởng, sản phẩm dữ liệu đạt giải là các phương án, giải pháp sáng tạo hỗ trợ giải quyết những tồn tại, khó khăn trong công việc chuyên môn của các đoàn viên được xây dựng thông qua chương trình đào tạo cùng với sự hướng dẫn, hỗ trợ và góp ý của các chuyên gia VPI (TS. Phan Ngọc Trung, TS. Nguyễn Hồng Minh, TS. Nguyễn Hữu Lương, ThS. Nguyễn Phương Thủy), Bộ phận Phân tích dữ liệu và Bộ phận Nắm thị trường của VPI. Được chọn lọc từ 11 sản phẩm có chất lượng tốt nhất trong chương trình đào tạo, 5 sản phẩm đại giải Nhất sẽ được VPI đầu tư phát triển trong thời gian tới. Cụ thể:

  1. Ứng dụng ngôn ngữ lập trình Python để hiệu chỉnh (normalization) đường Gamma ray (GR) trong địa vật lý giếng khoan (đoàn viên Nguyễn Thị Thanh)

Hiệu chỉnh (normalization) đường gamma ray (GR) trong địa vật lý giếng khoan là rất cần thiết khi có sự khác biệt về dải giá trị hoặc scale của các đường GR do sai số về mặt kỹ thuật của thiết bị đo, sự khác nhau về quá trình hiệu chỉnh ảnh hưởng môi trường giếng lên giá trị đo, đường GR được đo bằng những tool khác nhau, thiết bị của nhiều công ty khác nhau, hoặc các loại thiết bị thay đổi theo thời gian… Tác giả đã ứng dụng ngôn ngữ lập trình Python để tạo công cụ hiệu chỉnh tự động đường GR, áp dụng thử nghiệm cho 9 giếng khoan trong khu vực mỏ Sư Tử Đen, Lô 15-1, bể Cửu Long. Công cụ này giúp cho người minh giải tiết kiệm thời gian khi có thể tiến hành cho nhiều giếng khoan cùng một lúc, thuận tiện hơn trong việc kiểm tra dữ liệu, phát hiện các giá trị dị thường, có thể làm việc linh hoạt hơn trên các nền tảng web mà không cần đến các phần mềm chuyên ngành. Bên cạnh đó, sản phẩm cũng dễ dàng tích hợp thành tool đi kèm hoặc thành các bước chuẩn bị tài liệu cho những công việc với các nền tảng khác. Trong thời gian tới, tác giả sẽ tiếp tục hoàn thiện thêm các tính năng khác của sản phẩm, kết hợp sản phẩm với các nghiên cứu chuyên sâu khác ví dụ log conditioning, chuẩn hóa dữ liệu cho liên kết giếng khoan tự động, minh giải tự động bằng AI/ML…

  1.  Xây dựng công cụ dự báo sản lượng khai thác dầu sử dụng các thuật toán học sâu dựa trên cơ chế chú ý cho đối tượng móng nứt nẻ vòm Trung tâm, mỏ Bạch Hổ (đoàn viên Trần Đăng Tú)

Đối tượng móng có đặc điểm địa chất phức tạp, do đó, người điều hành mỏ đã thực hiện nhiều các phương pháp nhằm duy trì sản lượng khai thác như bơm ép nước, các giải pháp địa kĩ thuật, khoan đan dày… với sự hỗ trợ từ các công cụ truyền thống như: mô phỏng số và phân tích đường cong suy giảm. Tuy nhiên, hiệu quả dự báo khai thác từ các phương pháp này vẫn tồn tại nhiều hạn chế và độ tin cậy chưa cao. Để khắc phục các nhược điểm này, tác giả đã xây dựng công cụ dự báo sử dụng các thuật toán học sâu dựa trên cơ chế chú ý. Kết quả ban đầu khi sử dụng 1 thuật toán dựa trên cơ chế chú ý cho sai số ~10,7%, dự báo sản lượng khai thác dầu dựa trên dữ liệu khai thác trong quá khứ với độ chính xác đạt trên 70%. Việc ứng dụng cơ chế chú ý để đánh trọng số của các dữ liệu đầu vào trước khi đưa vào mô hình học sâu để huấn luyện có thể giúp nâng cao khả năng dự báo và tác giá kì vọng khi thử nghiệm, tối ưu các thuật toán dựa trên cơ chế chú ý có thể cho sai số < 8%.

  1. Chỉ số hydrogen Việt Nam (VN’s Hydrogen Index) (đoàn viên Trương Văn Nhân )

Chỉ số hydrogen Việt Nam (Hydrogen Index) là chỉ số thể hiện khả năng thâm nhập thị trường hydrogen sạch ở Việt Nam. Chỉ số càng lớn thể hiện khả năng thâm nhập thị trường và mức độ phát triển của lĩnh vực hydrogen càng lớn. Đồng thời, cũng thể hiện so sánh khả năng thâm nhập giữa 2 loại hydrogen sạch (Blue và Green hydrogen) để thấy được loại nào được đánh giá tốt hơn tại thời điểm lựa chọn. Thông tin sản phẩm mang lại không chỉ liên quan đến chỉ số hydrogen Việt Nam mà còn một số thông tin cơ bản khác như về thị trường, các dự án hydrogen Việt Nam, LCOH… Sản phẩm này có thể sử dụng cho nhiều khách hàng khác nhau như để tư vấn cho khách hang, nắm bắt được tình hình phát triển lĩnh vực hydrogen sạch ở Việt Nam và hỗ trợ đưa ra quyết định đầu tư lựa chọn đúng loại hydrogen sạch

  1. Tối ưu hóa (trực quan dữ liệu) dữ liệu hiện có tại phòng thí nghiệm; dự đoán xu hướng các thông số thể hiện độ giàu vật chất hữu cơ và mức độ trưởng thành nhiệt (TOC, S2, Tmax, Ro) cho các độ sâu mong muốn (đoàn viên Nguyễn Thị Thanh Ngà)

Giải pháp này hỗ trợ cho lĩnh vực thăm dò trong công tác tự động đọc và phân tích dữ liệu đầu vào; xử lý tự động dữ liệu thô (độ sâu và địa tầng; kết quả phân tích thạch học và các chỉ tiêu địa hóa); dự báo xu hướng các thông số thể hiện độ giàu vật chất hữu cơ và mức độ trưởng thành nhiệt; biểu diễn dữ liệu bằng biểu đồ và hình ảnh mô phỏng thể hiện các thông số cho giếng khoan. Sau khi được xử lý sơ bộ bằng excel, dữ liệu sẽ được xử lý chuyên sâu bằng Python– Jupyter note bằng các thư viện Pandas, Numpy cho việc nạp và xử lý dữ liệu; Pandas_profiling để phân tích khám phá dữ liệu (EDA- Exploratory Data Analysis); Matplotlib, Seaborn nhằm trực quan hóa dữ liệu; xây dựng mô hình dự đoán bằng phương pháp xây dựng mô hình machine learning bằng Scikit-learn, Tensorflow để dự báo kết quả cho khu vực không lấy mẫu phân tích hoặc mẫu bị nhiễm bẩn nặng. Việc phân tích mẫu tại phòng thí nghiệm kết hợp việc sử dụng mô hình dự đoán để tăng tính chính xác và độ tin cậy trong dự đoán kết quả phân tích mẫu giếng khoan. Sản phẩm hiện đang được nghiên cứu cải thiện chức năng tự động hoá quá trình chọn lọc dữ liệu đầu vào và tối ưu hoá mô hình machine learning tăng độ tin cậy và giá trị sử dụng của mô hình.

  1. Bản đồ hóa các điểm dữ liệu (đoàn viên Trần Xuân Quý)

Hiện nay, công tác phân tích, đánh giá động thái khai thác mỏ chủ yếu sử dụng bảng biểu và dạng hình vẽ đơn giản cho từng giếng khoan, do đó, việc xác định phân bố, xu hướng động thái khu vực gặp khó khăn. Sản phẩm này đã xây dựng được các bản đồ như bản đồ ngập nước (bản đồ độ bão hòa nước); bản đồ lưu lượng khai thác (dạng bọt). Trong thời gian tới, sản phẩm sẽ được bổ sung thêm các thông tin (lưu lượng nước, lưu lượng dầu), tích hợp bản đồ địa chất (fault, contour) để dễ theo dõi và quản lý cũng như nâng cao trải nghiệm người dùng với khả năng thao tác trực tiếp trên bản đồ. Bên cạnh đó, vị trí giếng khoan cũng sẽ tương ứng với vị trí bắt gặp tầng sản phẩm.

 

 

 

 

 

Đảng sống trong lòng dân tộc, trong lòng nhân dân bởi trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng đều khẳng định được bản lĩnh, trí tuệ để đảm đương sứ mệnh lãnh đạo đất nước và nhân nhân qua khó khăn, thử thách và đạt những kết quả phát triển đầy ấn tượng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã thực hiện thắng lợi, toàn diện nhiều mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả. Mặc dù 2022 là năm có nhiều khó khăn, thách thức lớn, bất ngờ xuất hiện, tác động xấu, nhiều mặt và ảnh hưởng rất nặng nề đến thế giới và Việt Nam; cùng với đó, những tác động từ yếu tố nội tại cũng như những tác động từ bên ngoài đã ảnh hưởng đến mọi mặt tình hình đất nước, nhưng chúng ta đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức 14/15 chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Ấn tượng là kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh, đạt 8%, cao hơn nhiều so với kế hoạch và là mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỉ USD, Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm 25 nền kinh tế hàng đầu về thương mại, chỉ số giá tiêu dùng được kiểm soát ở mức 3,15% so với cùng kỳ.

Đóng góp một phần trong đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) năm 2022 đã có cú “lội ngược dòng” khi xác lập nhiều kỷ lục nhất trong 61 năm xây dựng và phát triển. Doanh thu đạt hơn 931 nghìn tỷ đồng, tương đương với 9,8% GDP của cả nước; Nộp ngân sách chiếm tỉ trọng 9,5% tổng thu ngân sách Nhà nước – đây là tỉ trọng cao nhất kể từ năm 2015 đến nay, cao hơn so với tỉ trọng trung bình 2016 – 2021 (tăng 7,6%). Petrovietnam ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; cân đối vĩ mô và tham gia mạnh mẽ vào bình ổn thị trường…. Đây cũng là tinh thần chung, nỗ lực chung của nhiều doanh nghiệp trong thời qua.

Từ những khó khăn phát sinh của thực tiễn, Đảng ngày càng trưởng thành và đổi mới, nâng cao hơn nữa năng lực phân tích, dự báo; chủ động, nhạy bén nắm bắt những diễn biến mới của tình hình; kịp thời, quyết liệt xử lý có hiệu quả các vấn đề đặt ra; thích ứng linh hoạt với các tình huống mới phát sinh. Kịp thời phát hiện và có chủ trương, biện pháp phù hợp kiên quyết khắc phục những khó khăn, những việc khó, việc mới. Điều này cho thấy, trí tuệ, bản lĩnh của Đảng càng được khẳng định.

Link full video Chào mừng Ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã trải qua một năm thành công vượt thách thức, thiết lập nhiều kỷ lục trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhân dịp đầu Xuân Quý Mão 2023, TS Lê Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Petrovietnam đã chia sẻ về những dự định, kế hoạch của Petrovietnam trong năm 2023.

PV: Trước tiên xin được chúc mừng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã chinh phục những kỷ lục mới trong năm 2022, cũng xin chúc mừng cá nhân ông được vinh danh Doanh nhân tiêu biểu nhất Việt Nam năm 2022. Nhìn lại năm qua, xin ông cho biết những biện pháp cơ bản để Petrovietnam thực hiện thắng lợi kế hoạch sản xuất kinh doanh và phát triển bền vững?

TS Lê Mạnh Hùng: Năm 2022, để thực hiện được thắng lợi kế hoạch sản xuất kinh doanh và phát triển bền vững, Petrovietnam đã tập trung vào 8 nhóm nhiệm vụ:

Đầu tiên, cập nhật và điều chỉnh chiến lược phát triển Petrovietnam dựa trên những khó khăn, những thách thức, những cơ hội đã nghiên cứu, cập nhật từ thực tiễn hoạt động của Petrovietnam và trình các cơ quan thẩm quyền kế hoạch phát triển giai đoạn 2021-2025 cũng như điều chỉnh chiến lược phát triển Tập đoàn đến năm 2035 và tầm nhìn đến năm 2045.


Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng giới thiệu với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo các bộ, ngành về hoạt động khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ

Thứ hai, Petrovietnam đã tập trung củng cố và kiện toàn công tác quản trị gắn với tái cấu trúc và đổi mới doanh nghiệp. Thời gian qua, Tập đoàn đã triển khai hệ thống hóa bộ quy chế, quy định về quản trị doanh nghiệp có tham khảo và ứng dụng thông lệ quốc tế; trong đó, thực hiện phân cấp, phân quyền đồng bộ với hệ thống và mô hình tổ chức, mô hình kinh doanh, mô hình quản trị của Tập đoàn. Cùng với đó căn cứ vào mục tiêu chiến lược, Petrovietnam đã xây dựng đề án tổ chức, phân bổ lại nguồn lực, sắp xếp lại các doanh nghiệp trong Tập đoàn theo hướng tinh gọn, hiệu quả và cạnh tranh hơn.

Thứ ba, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân sự. Với trên dưới 60 ngàn người lao động Dầu khí và với chiến lược cập nhật, hệ thống quản trị, mô hình sau tái cấu trúc, Petrovietnam cần thiết phải xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ với khung năng lực, mục tiêu và chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng việc vận hành, quản trị hệ thống trong hiện tại cũng như trong tương lai của Tập đoàn.

Thứ tư, Petrovietnam tập trung vào quản trị các nguồn lực tài chính gắn với các hoạt động đầu tư của Tập đoàn. Việc đó đảm bảo Petrovietnam có nguồn lực và hiệu suất sử dụng tài sản tốt nhất. Bên cạnh đó, quản trị tài chính và dòng tiền sẽ giúp Petrovietnam quản trị chi phí tối ưu cũng như có được dòng tiền liên tục, ổn định, thông suốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư của Tập đoàn. Cùng với đó quản trị tốt công tác đầu tư thông qua quản trị danh mục đầu tư, trong đó tập trung vào các dự án trọng điểm.

Thứ năm, tập trung xây dựng danh mục sản phẩm, dịch vụ và hàng hóa chiến lược của Petrovietnam hiện nay, cũng như trong tương lai để có kế hoạch kinh doanh và phát triển cũng như mở rộng thị trường. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để Petrovietnam tạo lực kéo cho các sản phẩm tương lai cũng như mở rộng thị phần cho các sản phẩm hiện tại trên thị trường trong và ngoài nước.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng kiểm tra hoạt động vận hành khai thác tại mỏ Sao Vàng – Đại Nguyệt

Thứ sáu, tập trung xây dựng hệ thống quản trị rủi ro của doanh nghiệp theo mô hình của COSO và ERM. Tức là quản trị rủi ro là theo 3 lớp. Lớp thứ nhất là thông qua hệ thống điều hành trực tiếp sở hữu rủi ro; lớp thứ hai là Ban Tổng giám đốc và lớp thứ ba là HĐTV để đảm bảo rủi ro trong các nhóm của Petrovietnam được kiểm soát chặt chẽ.

Thứ bảy, tập trung phát triển và xây dựng tái tạo văn hóa doanh nghiệp.

Và cuối cùng, tập trung cùng với các bộ ngành, cơ quan hoàn thiện và thúc đẩy việc hoàn thiện cơ chế, thể chế quản trị đối với lĩnh vực dầu khí.

Hiện, Petrovietnam đang cùng Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan hoàn thiện dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Dầu khí năm 2022, tạo nền tảng quan trọng để Petrovietnam triển khai các hoạt động trong lĩnh vực cốt lõi. Đồng thời, Petrovietnam đang xây dựng dự thảo điều chỉnh điều lệ tổ chức hoạt động của Tập đoàn thay thế cho Nghị định 07 ban hành về tổ chức hoạt động của Petrovietnam trước đây trong điều kiện chiến lược mới, môi trường kinh doanh mới và cập nhật những khó khăn mới của Petrovietnam cần được tháo gỡ.

PV: Xin ông cho biết quyết tâm hiện thực hóa Khát vọng phát triển ngành Dầu khí Việt Nam được Petrovietnam thể hiện bằng những chiến lược, giải pháp gì?

TS Lê Mạnh Hùng: Hơn 60 năm truyền thống, Petrovietnam đã luôn thực hiện tốt sứ mệnh của mình trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; là đầu tàu phát triển kinh tế, xã hội; tiên phong ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực Dầu khí. Sứ mệnh đó hỗ trợ cho mục tiêu dài hạn, tầm nhìn, khát vọng của Tập đoàn hướng đến mục tiêu năm 2035 xây dựng Petrovietnam trở thành tập đoàn kinh tế hàng đầu của đất nước và khu vực, hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, công nghệ và công nghiệp, đồng bộ trong tất cả các khâu, có tiềm lực tài chính mạnh, có năng lực khoa học công nghệ, đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn trong nước và quốc tế.

Những năm gần đây, Petrovietnam liên tục đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, đặc biệt là khủng hoảng do đại dịch Covid-19, xung đột địa chính trị và giá dầu diễn biến bất thường. Nhưng với truyền thống và giá trị cốt lõi được hun đúc qua hơn 6 thập niên, Petrovietnam đã thật sự bản lĩnh, quản trị biến động, ứng phó với tác động kép, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Từ thực tiễn đó, để tiếp tục vượt qua những khó khăn, thách thức trong thời gian tới, Petrovietnam định hướng tiếp tục củng cố văn hóa nền tảng và xây dụng văn hóa bản sắc của mình trên cơ sở giá trị văn hóa cốt lõi của Petrovietnam, đồng thời cập nhật xu hướng mới của thế giới như xu hướng về chuyển dịch năng lượng, chuyển đổi số, thế giới phẳng… trong quản trị, cũng như triển khai các hoạt động của Tập đoàn.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Lê Mạnh Hùng kiểm tra, đôn đốc tiến độ Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2

Nội tại Petrovietnam cũng có sự thay đổi rất lớn trong những năm qua. Về cấu trúc tổ chức, mô hình hoạt động, từ chỗ hầu hết các đơn vị 100% vốn nhà nước hoặc nhà nước chi phối, nay đã có rất nhiều công ty thành viên của Petrovietnam chuyển sang công ty cổ phần, liên doanh, liên kết… Nguồn nhân lực cũng có sự biến động. Các thế hệ tiếp nối thay thế nhau, khó khăn, thuận lợi cũng thay đổi theo thời gian.

Thực tế đó chính là những yếu tố biện chứng để ban lãnh đạo Petrovietnam xây dựng triết lý quản trị hiệu quả trong thời kỳ biến động. Mô hình càng lớn sẽ chịu tác động càng nhiều. Gốc rễ là phải quản trị, thay đổi một cách căn bản kể cả trong văn hóa doanh nghiệp, với mục tiêu cuối cùng là thích ứng kịp thời, giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái kinh doanh, tận dụng được các cơ hội để thu về thành quả; kiên trì quan điểm tái tạo văn hóa đi trước, tạo đà cho tái tạo kinh doanh.

Thực tế trong nhiều năm qua, quản trị biến động đã thấm sâu, trở thành văn hóa trong quản trị doanh nghiệp của Petrovietnam, không chỉ ở Công ty mẹ mà còn ở tất cả các đơn vị thành viên. Petrovietnam luôn chú trọng bám sát diễn biến của thị trường, cập nhật các chính sách, sự phát triển của khoa học công nghệ, của môi trường tự nhiên, chính trị xã hội…, từ đó nghiên cứu và xây dựng nhiều kịch bản, giải pháp tương ứng. Từ đầu năm 2020, Petrovietnam đã ban hành Quyết định về “Bộ giải pháp ứng phó” cho 5 nhóm quản trị, thị trường, tài chính, đầu tư và cơ chế chính sách. Trước mỗi kỳ điều hành, lãnh đạo các đơn vị đều chủ động thực hiện các dự báo, xây dựng kịch bản và điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp thực tế. Petrovietnam phân cấp đồng bộ, giao quyền cho người hiểu rõ nhất về công việc ra quyết định và chịu trách nhiệm, để có những quyết định nhanh chóng, chính xác và ứng biến kịp thời. Sự lãnh đạo, điều phối nguồn lực, hỗ trợ, cùng với kiểm tra, giám sát, quản trị rủi ro từ Petrovietnam đến các đơn vị thành viên phải nhất quán, có hệ thống, kết nối chuỗi giá trị, đảm bảo tính liên tục và hướng đích…

Có thể nói, quản trị biến động là yếu tố rất quan trọng mà Petrovietnam đã, đang và sẽ luôn đặt lên hàng đầu, bởi bản chất của vạn vật là luôn vận động, thay đổi không ngừng để phát triển.

Để tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới, hoàn thành sứ mệnh trong giai đoạn mới, lãnh đạo Tập đoàn kêu gọi toàn thể cán bộ, người lao động Dầu khí cần gìn giữ và phát huy bản lĩnh, trí tuệ của người Dầu khí; chuyên nghiệp trong mọi hoạt động; duy trì kỷ luật, kỷ cương; phát huy giá trị nhân văn, nghĩa tình trong Văn hóa Dầu khí.

PV: Ông đánh giá thế nào về cơ hội của Petrovietnam trong phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo ngoài khơi (NLTTNK)? Điều gì đang gây vướng mắc cho Petrovietnam hiện nay để phát huy được lợi thế của mình trong phát triển NLTTNK?

TS Lê Mạnh Hùng: Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam và trên thế giới, khi các dạng năng lượng hóa thạch đang dần suy giảm thì năng lượng tái tạo, đặc biệt là NLTTNK sẽ là dạng năng lượng của tương lai, đáp ứng được nhu cầu năng lượng của Việt Nam trong những năm tới. Dự thảo Quy hoạch Điện VIII cũng đặt chỉ tiêu công suất điện gió ngoài khơi đạt 7 GW, chiếm 4,8% tổng công suất nguồn điện đến năm 2030 và đạt 66,5 GW vào năm 2045. Trong tương lai gần, NLTTNK là một trong những loại hình năng lượng mà Petrovietnam sẽ tập trung nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững bên cạnh nguồn năng lượng hóa thạch truyền thống. Với định hướng Petrovietnam phải chủ động, tiên phong trong lĩnh vực công nghệ NLTTNK, có vai trò đầu mối trong ngành công nghiệp NLTTNK, Petrovietnam đã phân tích, đánh giá thách thức, cơ hội, năng lực kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực này, đánh giá lĩnh vực thế mạnh của Petrovietnam cũng như tình hình tham gia NLTTNK của các đơn vị trong chuỗi cung ứng; xây dựng lộ trình đầu tư cơ sở vật chất, xác định mô hình hợp tác để Petrovietnam không ngừng nâng cao năng lực kỹ thuật, sớm làm chủ công nghệ NLTTNK; đề xuất các cơ chế chính sách liên quan để tạo ưu thế cho các doanh nghiệp trong nước.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng nhận vinh danh Top 10 doanh nhân tiêu biểu nhất Việt Nam năm 2022

Là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực khai thác dầu khí với địa điểm hoạt động trên biển là chính, Petrovietnam và các đơn vị thành viên có nhiều lợi thế, tiềm năng, năng lực để triển khai các dự án NLTTNK. Điểm tương đồng giữa các dự án NLTTNK và các công trình dầu khí trên biển đều là các dự án với kết cấu bằng thép được thi công chế tạo hoàn thiện trên bờ và lắp đặt ngoài khơi. Sự tăng trưởng của NLTTNK sẽ mang lại cơ hội cho những đơn vị cung cấp dịch vụ dầu khí ngoài khơi như Vietsovpetro, PTSC, PVC-MS… với kinh nghiệm, nguồn lực, thế mạnh, năng lực triển khai các gói công việc trong việc xây dựng các dự án NLTTNK; hệ thống cảng, cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng các yêu cầu triển khai dự án NLTTNK. Điều này đã được chứng minh khi gần đây, PTSC đã chủ động tham gia cung cấp dịch vụ cho phần lớn các dự án điện gió, điện gió ngoài khơi cho các nhà thầu trong và ngoài nước. Vietsovpetro cũng đã và đang cung ứng các dịch vụ liên quan để thực hiện các dự án trên biển. Có thể khẳng định, Petrovietnam là doanh nghiệp đứng đầu Việt Nam về cơ khí chế tạo, thi công và xây lắp các công trình dầu khí ngoài khơi, được khách hàng quốc tế đánh giá cao.

Petrovietnam: Khát vọng chinh phục đỉnh cao mới

Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng trao đổi với các chuyên gia tại công trường lắp ráp Dự án Điện gió ngoài khơi đế nổi Hywind Tampen của Equinor tại Gulen, Na Uy

Quan trọng nhất, Petrovietnam đảm bảo năng lực triển khai ở tất cả giai đoạn của dự án NLTTNK. Với bề dày kinh nghiệm, năng lực, nguồn lực và hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có trong lĩnh vực khai thác dầu khí ngoài khơi, việc Petrovietnam tham gia vào ngành công nghiệp NLTTNK sẽ đem lại lợi ích to lớn, tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có của các đơn vị trong nước, tránh lãng phí đầu tư, có thể xuất khẩu dịch vụ ra thị trường quốc tế và đặc biệt góp phần vào công tác bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.

Lãnh đạo Tập đoàn đã chỉ đạo các đơn vị tập trung triển khai rà soát đội ngũ nhân sự làm việc trong lĩnh vực NLTTNK để kiện toàn ngay. Đây chính là nguồn lực cơ bản và quan trọng của Petrovietnam trong việc tiếp cận với một lĩnh vực mới, từ đó có thể triển khai định hướng chiến lược về chuyển dịch năng lượng của Petrovietnam một cách hiệu quả, phù hợp. Song song với việc kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực, Petrovietnam và các đơn vị cần tập trung triển khai đề án làm chủ công nghệ NLTTNK từ thiết kế cơ bản, chế tạo, cung ứng, lắp đặt, vận hành, chạy thử, bảo dưỡng dự án NLTTNK.

Về chiến lược dài hạn, Tập đoàn đã tập trung đánh giá thị trường NLTTNK trong nước, khu vực và trên thế giới để có cái nhìn tổng quan, phục vụ cho việc hoạch định chiến lược lâu dài cho lĩnh vực này. Từ đó, xây dựng chiến lược cụ thể cho phát triển NLTTNK trong chiến lược chuyển dịch năng lượng của Petrovietnam, xác định mô hình về đầu tư, triển khai công nghiệp năng lượng tái tạo một cách phù hợp, hiệu quả trên cơ sở tận dụng thế mạnh của Tập đoàn và các đơn vị, kết hợp với phát triển chiến lược về dầu khí.

Nội dung quan trọng dài hạn khác là tập trung tháo gỡ cơ chế, tạo hành lang pháp lý cho lĩnh vực NLTTNK. Tập đoàn đã giao cho Viện Dầu khí Việt Nam nghiên cứu, xây dựng dự thảo sáng kiến lập pháp về hành lang pháp lý liên quan đến NLTTNK, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã gợi mở giao nhiệm vụ này cho Tập đoàn, đây sẽ là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này trong tương lai.

Từ nay đến 2030, thời điểm chuyển mình của các doanh nghiệp năng lượng trong đó có Petrovietnam, còn rất ngắn. Tập đoàn và các đơn vị trong ngành cần phải chuẩn bị nguồn lực, sẵn sàng tạo đà cho việc tái tạo kinh doanh, mở rộng sang lĩnh vực NLTTNK đầy tiềm năng và lợi thế.

PV: Ông có thể chia sẻ thêm về mục tiêu của Petrovietnam trong thời gian tới?

TS Lê Mạnh Hùng: Năm 2023 được dự báo sẽ có nhiều bất lợi như giá dầu giảm, nhu cầu thị trường thấp, suy thoái kinh tế toàn cầu… Đặc biệt, tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, EU…, lãi suất, lạm phát tăng mạnh; cuộc chiến Nga – Ukraine chưa kết thúc… dẫn đến xu hướng thu hẹp sản xuất trên thế giới, xuất khẩu suy giảm, giảm nhu cầu tiêu thụ điện, khí… Đây là những rủi ro mà Petrovietnam phải tiếp tục quản trị biến động, xây dựng kế hoạch dự phòng, tận dụng cơ hội để hoàn thành cao nhất kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2023.

Bên cạnh đó, Petrovietnam tiếp tục quản trị tốt hệ thống sản xuất và tài chính doanh nghiệp; triển khai các dự án đầu tư lớn, trọng điểm như: Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 phải đi vào vận hành thương mại trong quý I/2023; có phương án cho Dự án Nhiệt điện Long Phú 1; Dự án Nâng cấp và mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất; chủ trương Dự án Tổ hợp lọc hóa dầu và Dự trữ năng lượng Long Sơn… Đặc biệt, Dự án Khí điện Lô B phải có phương án triển khai đáp ứng thời điểm dòng gas đầu tiên tối ưu nhất.

Ngoài ra, Petrovietnam cũng tiếp tục xử lý triệt để các dự án khó khăn, tìm phương án thoát lỗ cho các công ty đang gặp khó.

Bước sang năm 2023, Petrovietnam tiếp tục củng cố và đổi mới công tác quản trị mà quản trị biến động là trọng tâm; tiếp đến là quản trị dựa trên nền tảng số đã hình thành trong những năm qua; thúc đẩy kết nối các nguồn lực để đầu tư mạnh mẽ các dự án lớn; mở rộng hợp tác đầu tư phát triển và kinh doanh quốc tế dựa trên lợi thế về quan hệ của Việt Nam với các nước và thị trường, tập trung tại Đông Nam Á, Nga và Trung Đông, Bắc Mỹ…

Với Petrovietnam, “tương lai sẽ là lực kéo, hiện tại và quá khứ chính là lực đẩy” để tiếp tục phát triển bền vững và vươn ra biển lớn.

PV: Xin cảm ơn ông về buổi trao đổi và xin chúc cho Petrovietnam sẽ tiếp nối truyền thống để chinh phục những đỉnh cao mới!

Sau Nam Phi và Indonesia, Việt Nam là quốc gia thứ ba đạt được thỏa thuận thành lập Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (Just Energy Transition Partnership – JETP). Những vấn đề liên quan cần được cân nhắc khi triển khai JETP tại Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu của Hiệp định Paris đúng thời điểm, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh năng lượng phù hợp với chính sách của Việt Nam. TS. Đặng Thị Thúy Hạnh – chuyên gia của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) trao đổi về chủ đề này.

 

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh – chuyên gia của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI)

Phóng viên: JETP là cơ chế hợp tác tài chính mới với mục đích giúp một số nền kinh  tế  mới  nổi  phụ  thuộc  nhiều  vào  than  đá  thực  hiện  quá trình chuyển  sang sử dụng năng lượng sạch một cách công bằng. Xin chị cho biết các điểm chính trong JETP của Việt Nam?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Theo JETP được ký ngày 14/12/2022, có ít nhất 15,5 tỷ USD sẽ được tài trợ dưới hình thức chủ yếu là cho vay ưu đãi trong khoảng từ 3 – 5 năm để hỗ trợ cho quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng, một nửa số đó được huy động từ tài chính khu vực công với các điều khoản ưu đãi hơn thông thường. Một nửa còn lại được huy động và tạo điều kiện từ tài chính tư nhân, để Việt Nam:

Phóng viên: Tại COP27, Nam Phi đã công bố Kế hoạch thực hiện JETP (JETP IP), trong đó đưa ra các yêu cầu đầu tư ưu tiên trong lĩnh vực điện, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng mới và lĩnh vực hydrogen xanh. Xin chị cho biết Nam Phi đã xây dựng kế hoạch như thế nào?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Để đạt được các mục tiêu của JETP IP, khoản tài chính cần thiết Nam Phi đưa ra là 98 tỷ USD, cao hơn nhiều so với mức 8,5 tỷ USD được cam kết hỗ trợ. Điều này cho thấy nhu cầu đầu tư cho chuyển dịch năng lượng rất cao, phần hỗ trợ theo JETP chỉ chiếm 1 tỷ trọng nhỏ. Khoản tài trợ 8,5 tỷ USD của Nhóm Đối tác Quốc tế (International Partners Group – IPG) sẽ hướng tới việc hỗ trợ các nhu cầu cấp thiết được thể hiện trong Kế hoạch đầu tư (Just Energy Transition Investment Plan – JET IP), đó là i) tăng cường và mở rộng lưới truyền tải và phân phối; ii) ngừng hoạt động và tái sử dụng các nhà máy than; iii) đẩy nhanh đầu tư năng lượng tái tạo; iv) các biện pháp sử dụng năng lượng hiệu quả và v) chuẩn bị và bố trí cơ sở hạ tầng xã hội để tạo điều kiện chuyển dịch năng lượng công bằng cho người lao động, cộng đồng và các địa điểm liên quan bị ảnh hưởng, bao gồm cơ hội tạo việc làm ở các khu vực khai thác than bị ảnh hưởng. Như vậy, JETP giống như 1 gói hỗ trợ mang tính khơi mào, thúc đẩy nhanh hơn quá trình dịch chuyển. Quốc gia nhận hỗ trợ vẫn phải tự lực, huy động mọi nguồn lực khác có thể, kể cả trong nước và quốc tế.

Phóng viên: Theo chị, IPG có hỗ trợ cho việc chuyển từ sử dụng than sang sử dụng khí đốt như “cầu nối” trước khi chuyển hẳn sang sử dụng năng lượng tái tạo? 

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Quan điểm sử dụng khí từ nguồn hóa thạch làm cầu nối trong quá trình tiến tới Net Zero đang có thay đổi. Theo Bộ Kinh tế và Hành động Khí hậu Liên bang, CHLB Đức, trong bản cập nhật mới nhất của Chiến lược hydrogen Quốc gia, lần đầu tiên hydrogen lam, sản xuất từ nguồn hóa thạch kết hợp sử dụng CCUS để khử thải CO2, cũng sẽ được xúc tiến. Điều này chưa được đề cập tới trong lần xuất bản thứ nhất vào năm 2020. Tuy nhiên, hydrogen lam sẽ không đủ điều kiện nhận các khoản trợ cấp theo Hợp đồng về chênh lệch (Contracts for Difference) đã được lên kế hoạch của EU.

Có thể thấy, việc ưu tiên năng lượng tái tạo là hàng đầu nhưng cũng cần tính đến khả năng đáp ứng của chúng trong trung hạn và dài hạn để xác định mức độ ưu tiên và có giải pháp thích hợp, như vậy sẽ đảm bảo quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng. Thêm vào đó, JETP cũng thừa nhận Việt Nam có thể sử dụng CCUS cho các ngành khó giảm thải để đạt mục tiêu.

Theo Viện Phát triển Bền vững Quốc tế (IISD), việc chuyển dịch từ than đá sang khí hóa thạch, thông qua JETP hoặc bất kỳ nguồn tài chính công quốc tế, sẽ không tạo thành sự chuyển dịch bền vững và công bằng mà mô hình JETP đại diện. Cho đến nay, các quốc gia tài trợ đã đồng ý rằng tài chính của JETP không được sử dụng cho nhiên liệu hóa thạch. Trong trường hợp này, nếu cần chuyển dịch từ than sang khí như một bước đệm cho quá trình chuyển dịch thì quốc gia chuyển dịch cần có kế hoạch huy động từ các nguồn khác.

Cấu trúc các quốc gia trong JETP.

JETP đầu tiên được công bố tại Hội nghị các bên về biến đổi khí hậu lần thứ 26 của Liên hợp quốc (COP26) ở Glasgow, theo đó Nam Phi được Pháp, Đức, Vương quốc Anh, Mỹ và EU cam kết tài trợ 8,5 tỷ USD. Sau Nam Phi sẽ là JETP với các quốc gia khác, bao gồm Indonesia, Việt Nam, Ấn Độ (dự kiến vào tháng 7/2023) và Senegal.

Phóng viên: Trong bối cảnh nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng cao, việc tăng mục tiêu giảm phát thải và đẩy nhanh đạt đỉnh thải vào năm 2030 của khí nhà kính nói chung và điện nói riêng là thách thức rất lớn. Theo chị, cần làm gì để thúc đẩy phát triển nhanh năng lượng tái tạo?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Giải pháp khả thi khi phải giảm bớt điện than là thúc đẩy triển khai nhanh năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió). Như vậy, cần phải tích hợp năng lượng tái tạo ở mức cao hơn, do đó đòi hỏi lượng vốn rất lớn đầu tư cho hệ thống lưới truyền tải, hạ tầng công nghệ điều độ hệ thống, công nghệ AI, phát triển công nghệ về dự trữ năng lượng như thủy điện tích năng, pin tích trữ điện, các công nghệ hydrogen, CCUS…

Vì chuyển dịch năng lượng sẽ tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới, nên hầu như chưa có hành lang pháp lý cho những lĩnh vực mới này. Cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm các nước, xây dựng lộ trình để ban hành cơ sở pháp lý và chính sách, cơ chế cho những lĩnh vực mới này.

Bên cạnh đó, nhu cầu về công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản lý , áp dụng công nghệ, vận hành trong chuỗi giá trị các lĩnh vực điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, CCUS, hydrogen. Việt Nam cần tranh thủ tài trợ để nhận chuyển giao công nghệ, đào tạo, tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.

Phóng viên: Gói hỗ trợ đã công bố cho Nam Phi, Indonesia và Việt Nam là khởi điểm cho quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng. Theo chị, Việt Nam cần chuẩn bị những gì để triển khai JETP?

TS. Đặng Thị Thúy Hạnh: Trong thời gian 1 năm tới đây dành cho việc đàm phán chi tiết cụ thể về các điều khoản tài chính, kế hoạch cải cách, cơ cấu điều phối…, để xây dựng kế hoạch huy động nguồn lực (Resources Mobilization Plan), Việt Nam cần lưu ý xây dựng RMP khả thi, khoa học, tận dụng nguồn tài trợ này phục vụ hiệu quả cho quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng.

Việc triển khai JETP cần được chú trọng và xem xét thấu đáo về cách thức hoạt động của các loại mô hình tài trợ sáng tạo này như thế nào, sẽ đạt được gì cho giảm thiểu biến đổi khí hậu và những nguy cơ nào cần tránh.

Các khía cạnh “công bằng” cần có tỷ trọng hợp lý trong gói tài trợ. Trong khi các khoản vay quốc tế, bảo lãnh và tài chính tư nhân sẽ giúp tăng quy mô đầu tư cơ sở hạ tầng, khoản tài trợ không hoàn lại (hoặc ưu đãi cao) quan trọng hơn để giảm bớt tác động đối với những cộng đồng bị ảnh hưởng tiêu cực bởi quá trình chuyển dịch kinh tế.

Mọi chính sách đều có thể được điều chỉnh cho phù hợp tình hình thực tế đối với cả hai bên, bên tài trợ và bên nhận tài trợ. Khi các nguyên tắc sử dụng tài chính công của JETP được áp dụng linh hoạt dựa trên những tư duy được cập nhật mới nhất để quá trình chuyển dịch năng lượng công bằng sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai JETP đạt mục tiêu của Hiệp định Paris đúng thời điểm, đồng thời bảo đảm hiệu quả kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh năng lượng, phù hợp với chính sách của Việt Nam.

Chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam theo đánh giá của UNDP, có thể cần đến 60 tỷ USD/năm từ nay cho đến 2050. JETP là bước đầu và sẽ cần nhiều chương trình hỗ trợ khác, cần huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn chị!

 

Năm 2022 là năm thứ ba công tác “Quản trị biến động” của Petrovietnam đạt được thành tích ấn tượng; là yếu tố quan trọng, quyết định toàn diện đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Petrovietnam đã triển khai thành công các giải pháp ứng phó trước các biến động địa kinh tế – chính trị và đã đạt nhiều kỷ lục quan trọng, với 8 dấu ấn nổi bật. Đây chính là động lực, niềm tin để Petrovietnam tiếp tục phát triển ổn định, bền vững và vươn xa.

  1. Quản trị biến động đã trở thành văn hóa trong quản trị doanh nghiệp của Petrovietnam, tạo nên những thành tích ấn tượng
Giàn Cá Tầm 02, một trong 05 mỏ/công trình dầu khí mới vào khai thác trong năm 2022

Giàn Cá Tầm 02, một trong 05 mỏ/công trình dầu khí mới vào khai thác trong năm 2022

  1. Vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội thị trường, lập nhiều kỷ lục trong 61 năm xây dựng và phát triển ngành Dầu khí Việt Nam
Ngày 01/01/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm, làm việc, động viên người lao động BSR – một trong những đơn vị chủ lực của Petrovietnam vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội thị trường, đạt kỷ lục về doanh thu trong năm 2022

Ngày 01/01/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm, làm việc, động viên người lao động BSR – một trong những đơn vị chủ lực của Petrovietnam vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội thị trường, đạt kỷ lục về doanh thu trong năm 2022

  1. Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn thị trường, gia tăng kim ngạch xuất khẩu
Tại cảng xuất hàng PVCFC. Năm 2022, xuất khẩu sản phẩm phân đạm của Petrovietnam tiếp tục lập kỷ lục với kim ngach đạt trên 405 triệu USD, chiếm 37% giá trị xuất khẩu phân bón của cả nước

Tại cảng xuất hàng PVCFC. Năm 2022, xuất khẩu sản phẩm phân đạm của Petrovietnam tiếp tục lập kỷ lục với kim ngach đạt trên 405 triệu USD, chiếm 37% giá trị xuất khẩu phân bón của cả nước

  1. Thúc đẩy, hoàn thiện thể chế; Luật Dầu khí năm 2022 chính thức được thông qua
Luật Dầu khí 2022 đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14/11/2022

Luật Dầu khí 2022 đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14/11/2022

  1. Hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ đóng góp thiết thực, tạo đột phá
Năm 2022, 03 công trình, cụm công trình Dầu khí được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, 03 công trình Dầu khí được trao Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ

Năm 2022, 03 công trình, cụm công trình Dầu khí được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, 03 công trình Dầu khí được trao Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ

  1. Công tác quản trị đầu tư đạt kết quả tích cực
Tháng 7/2022, Khánh thành và đưa vào vận hành thương mại Nhà máy Nhiệt điện Sông Hâu 1

Tháng 7/2022, Khánh thành và đưa vào vận hành thương mại Nhà máy Nhiệt điện Sông Hâu 1

  1. Công tác chuyển đổi số đạt được những kết quả bước đầu, hình thành nền tảng đồng bộ của Petrovietnam
Petrovietnam đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số, đã tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh, triển khai xây dựng các nhà máy thông minh, nâng cao trải nghiệm khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh và đạt được những lợi ích thiết thực. (Ảnh: Thanh toán bằng giao dịch điện tử, đọc mã QR tại cây xăng PVOIL)

Petrovietnam đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số, đã tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh, triển khai xây dựng các nhà máy thông minh, nâng cao trải nghiệm khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh và đạt được những lợi ích thiết thực. (Ảnh: Thanh toán bằng giao dịch điện tử, đọc mã QR tại cây xăng PVOIL)

  1. Tái tạo văn hóa Petrovietnam, nâng cao giá trị thương hiệu
Từ những kết quả, thành công của việc tái tạo văn hóa Petrovietnam trong thời gian qua, khẳng định nền tảng giá trị cốt lõi “Khát vọng – Trí tuệ – Chuyên nghiệp – Nghĩa tình”

Từ những kết quả, thành công của việc tái tạo văn hóa Petrovietnam trong thời gian qua, khẳng định nền tảng giá trị cốt lõi “Khát vọng – Trí tuệ – Chuyên nghiệp – Nghĩa tình”

[1] Tổng doanh thu toàn Tập đoàn đạt 931,2 nghìn tỷ đồng/GDP (theo giá hiện hành) năm 2022 đạt 9513,3 nghìn tỷ đồng (Nguồn: Tổng cục Thống kê).

[2] Nộp NSNN toàn Tập đoàn đạt 170,6 nghìn tỷ đồng/Tổng thu NSNN cả nước đạt 1804 nghìn tỷ đồng (Nguồn: Báo cáo Chính phủ ngày 03-01-2023).